NĂM 2023 THÁNG 01 NGÀY 11
KIẾN NGHỊ: BỎ HẲN ÂM LỊCH, CHỈ DÙNG DƯƠNG LỊCH
Người Việt Nam thường sử dụng cả Dương lịch và Âm lịch,
nhưng phần nhiều không để ý tìm hiểu, không biết được bản chất của hai thứ Lịch
này.
Nhiều người không những không hiểu, mà còn hoàn toàn
hiểu sai, kể cả một số Nhà khoa học lớn, có Học hàm, Học vị cao và Chức vụ lớn.
Tai hại của chuyện này là người bình thường nghe các Cụ ấy nói, lại tưởng đó là
chân lý bất di bất dịch, và cái sai trái ấy được lan truyền rất rộng rãi khắp đất
nước.
1. Dương lịch là gì?
Dương lịch là việc phân chia sắp xếp thời gian thành
Ngày, Tháng, Năm, theo vòng quay của Trái đất quanh Mặt trời. “Dương lịch” tiếng
Anh là “Calendar”; tiếng Nga là “календарь”, tiếng Trung Quốc là “日曆” (“Nhật lịch”, nghĩa là
“Lịch Mặt trời”).
2. Âm lịch là gì?
Âm lịch là việc phân chia sắp xếp thời gian thành
Ngày, Tháng, Năm theo vòng quay của Mặt trăng quanh Trái đất. “Âm lịch” tiếng
Anh là “Lunar calendar”, nghĩa là “Lịch trăng”, tiếng Nga là “Лунный календарь”
(nghĩa là “Lịch theo trăng”), tiếng Trung Quốc là “陰曆”
(“Âm lịch”).
3. Tại sao người Việt Nam lại gọi “Âm lịch” và “Dương
lịch”? Hai từ này là tiếng Hán, chứ không phải là tiếng Việt, “Lịch” (曆, 历) trong tiếng Hán là “sắp
xếp giờ giấc”; “Dương” (陽,
阳), và “Âm” (陰, 阴) là hai Từ của Kinh Dịch
xưa của người Tàu. Kinh Dịch cho rằng mọi vật, mọi hiện tượng trong Vũ trũ này
được tạo thành bởi hai mặt đối lập, gọi là hai mặt “Dương” và “Âm”, ví dụ “Con người
và mọi sinh vật” đều gồm hai giới, “Dương” là đàn ông, là giống đực, “Âm” là
đàn bà, là giống cái.
Thiên văn cổ với hiểu biết thô sơ, cho rằng Trái đất
là trung tâm Vũ trụ, có hai thiên thể lớn nhất Vũ trụ là Mặt trăng và Mặt trời,
còn hàng vạn Vì sao đều nhỏ xíu, được đính vào Vòm Trời, và họ còn nghĩ rằng Mặt
trăng và Mặt trời là hai vật thể đối lập, họ gọi Mặt trời là “Thái Dương”, Mặt
trăng là “Thái Âm”, với chữ “Thái” (太)
trong tiếng Tàu nghĩa là “rất lớn”, “vượt mức”
Từ xưa người Trung Hoa đã biết làm Lịch, theo vòng
quay của Mặt trăng quanh Trái đất. Về sau, tới khi người Trung Hoa tiếp thu Lịch
Mặt trời của Phương Tây, thì họ gọi Lịch Phương Tây là “Nhật lịch” (日曆, 日历) hoặc đôi khi gọi là
“Dương lịch” ((陽曆, 阳历), và gọi Lịch của họ là
“Âm lịch” (陰历, 阴历) và đôi khi gọi “Nguyệt
lịch” (月曆, 月历).
Người Việt Nam học theo tiếng nói của người Trung Hoa,
là Âm lịch và Dương lịch. Còn đôi khi gọi Dương lịch “Lịch Tây”, gọi “Âm lịch”
là “Lịch Ta”. Thực ra nói “Lịch Ta” là không chính xác, vì không có Lịch của
người Việt Nam, mà chỉ có Lịch Tây của người Tây và Lịch Tàu của người Tàu.
4. Những nét cốt lõi của việc làm Lịch
Thứ nhất, xác định Thời lượng của 1 ngày đêm:
Người ngày xưa, và kể cả chúng ta ngày nay, không ai
“thấy” được Trái đất quanh Mặt trời, mà chỉ thấy Mặt trời và Mặt trăng cùng
quay quanh Mặt đất, mỗi ngày đêm được 1 vòng. Người ta đo đạc thời gian này, gọi
là Thời lượng của 1 ngày đêm, và quy định Thời lượng đó bằng 24 Giờ.
Thứ hai, xác định Thời lượng của 1 năm:
Người xưa, kể cả Phương Đông và Phương Tây, quan sát sự
biến đổi của thiên nhiên, khí hậu, sinh thái trên Mặt đất. thấy rằng sự biến đổi
này lặp lại, chu kỳ lặp lại khoảng 360 ngày, người ta gọi đó là 1 Năm
Đến Thế kỷ 18, Khoa học của nhân loại khẳng định Trái
đất quanh Mặt trời, và khẳng định Thời lượng của 1 năm chính là Khoảng thời
gian Trái đất quay được 1 vòng quanh Mặt trời.
Thứ ba: Qui định số tháng của một năm, để tính ra số
ngày của 1 tháng
Thứ tư: Qui định Tên gọi của năm, để xác định vị trí của
một năm cụ thể trong suốt hàng ngàn triệu năm.
Thứ năm: Qui định một ngày làm ngày đầu năm
5. Với Lịch Mặt trăng nguyên thủy Trung Hoa:
Hơn 4000 năm trước người Trung Hoa đã đo được Tuần
Trăng (khoảng thời gian giữa hai kì trăng tròn), là 29 ngày rưỡi. Họ gọi thời
gian này là 1 tháng. Cho nên trong tiếng Tàu chữ “Tháng” và chữ “Trăng” là cùng
một chữ “Nguyệt” (月), chứ không phải như
trong tiếng Việt, “Tháng” và “Trăng” là hai Từ khác nhau, thể hiện hai khái niệm
khác nhau.
Để làm tròn số ngày trong 1 tháng, Lịch Tàu qui định
Tháng Lớn (Đại Nguyệt, 大月)
có 30 ngày, Tháng Nhỏ (Tiểu Nguyệt, 小月)
có 29 ngày, người Việt Nam dùng Lịch Tàu gọi là “Tháng đủ” và “Tháng thiếu”.
Họ quan sát thấy thiên nhiên, khí hậu, sinh thái trên
mặt đất thay đổi tuần hoàn với chu kì khoảng 12 tháng, từ đó Lịch Tàu qui định
1 năm có 12 tháng.
Lịch này giúp con người xác định được chính xác ngày
Trăng tròn, cũng là ngày Thủy triều trên biển dâng cao nhất, ngoài ra không
liên quan gì đến thời tiết, khí hậu, mùa màng, nông nghiệp …
Với Lịch này, mỗi năm chỉ có 12 tháng x 29,5
ngày/tháng = 354 ngày. Nếu so với chu kỳ biến đổi khí hậu trên mặt đất, thì mỗi
năm bị thiếu mất 365 ngày - 354 ngày = 11 ngày, sau ba năm sẽ thiếu mất 1 tháng.
Và như vậy sau (3 năm) x 6 = 18 năm thì Lịch sẽ sai lệch với thiên nhiên 6
tháng, nghĩa là 4 mùa sẽ đảo lộn, tháng 6 là mùa đông, tháng 12 là mùa hè.
Có thể gọi Lịch này là “Âm Lịch Nguyên Thủy”.
Hiện nay trên Thế Giới vẫn tồn tại “Âm Lịch Hồi giáo”,
giống hệt “Âm Lịch Nguyên Thủy” của người Tàu.
6. “Âm – Dương Lịch” Trung Hoa
Sau nhiều năm quan sát, người Tàu thấy 1 năm nếu chỉ
12 tháng thì không phù hợp với sự biến đổi thiên nhiên, và họ thấy, cứ ba năm
thì phải thêm 1 tháng nhuận. Nhưng ban đầu, chưa có cơ sở khoa học để xác định
chính xác ngày nhuận tháng nhuận.
Khoảng hơn 2500 năm trước, các Nhà khoa học Thiên văn
của các Đài Thiên văn của Hoàng đế Trung Hoa đã quan sát, đo đạc bầu trời sao,
và thực hiện phép “Đo bóng Mặt trời”, và họ cũng đã có kết quả giống như Lịch
Phương Tây, là một Chu kỳ biến đổi của thiên nhiên, khí hậu, sinh thái trên Mặt
đất có 365 ngày 6 giờ, và thời gian quay vòng trung bình của Mặt trăng quanh Quả
đất là 29,534 ngày.
Nhưng người Trung Hoa không hủy bỏ Lịch Tàu, mà họ cải
tiến nâng cao “Lịch Tàu Nguyên thủy” thành “Âm Lịch”, và gọi chính xác Lịch này
là “Âm – Dương Lịch” ( 陰
陽 曆, 阴 阳 历).
Lịch này về bản chất là giống hệt Dương lịch, chỉ khác
là cố tình giữ lại việc phân chia ngày tháng theo tuần trăng, dẫn đến hệ lụy rất
rắc rối phức tạp, cho việc làm lịch, sử dụng lịch.
Ngày nay Âm lịch mà người Việt chúng ta đang sử dụng,
chính là “Âm – Dương Lịch” của người Trung Hoa.
7. Khác nhau giữa “Dương lịch” và “Âm – Dương Lịch”
Trung Hoa:
- Việc làm Lịch:
Làm
Lịch Tây vô cùng đơn giản, chỉ cần tuân thủ 1 số qui định như đã nói ở phần
trên (mục 5). Nên bất
cứ ai cũng có thể “nhắm mắt” viết ra đầy đủ chính xác Lịch của một năm nào đó,
của quá khứ và cả của tương lai.
Còn làm Âm – Dương lịch, công việc làm Lịch không đơn
giản một tí nào, do ngày tháng của Lịch này phải tuân thủ cả chuyển động của Quả
đất quanh Mặt trời và chuyển động của Mặt trăng quanh Quả đất, với hàng ngàn
bài tính phức tạp, rắc rối, liên quan đến những thông số Thiên văn Địa lý của Mặt trăng, Trái đất, Mặt trời, và rất nhiều mối liên quan, rất nhiều qui
ước vô cùng phức tạp.
Lưu ý rằng, làm Âm – Dương lịch là phải sử dụng “bài
toán 3 vật thể trong không gian”, bài toán này đến nay Khoa học của nhân loại vẫn
chưa giải được trọn vẹn, mặc dù đã được những nhà Toán học giỏi nhất Thế giới dày
công nghiên cứu hàng ngàn năm nay.
Hàng năm, để lập nên Âm – Dương lịch của năm tiếp
theo, phải mở Hội nghị,
tập hợp những Nhà làm Lịch chuyên nghiệp, kỳ cựu, thảo luận, tính toán.
Lịch này cũng có lắm chuyện “tréo ngoe”. Ví dụ câu
chuyện ngày Tết năm Mậu Thân (1968). Miền Bắc theo múi giờ thứ 7, còn Miền Nam
theo múi giờ thứ 6, theo đúng qui tắc tính toàn làm Âm – Dương lịch, thì ngày Âm lịch của
2 miền năm đó chênh lệch nhau 1 ngày, dẫn đến kết quả: ngày 30 Tết của Miền Bắc
lại là ngày 01 Tết của Miền Nam!
- Ngày Tiết: Dương lịch có 8 “ngày Tiết”, 8 “ngày Tiết”
này giúp xác định 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông trên Trái đất. Tám Ngày Tiết này gần
như cố định trong Dương lịch, như đã trình bày ở mục 9.
Âm – Dương lịch cũng có tám Ngày Tiết như vậy. Nhưng
trong Âm – Dương lịch, ngày tháng không được sắp xếp thứ tự chặt chẽ như trong
Dương lịch, mà biến hóa vô cùng rắc rối, cho nên các nhà làm Lich phải hết sức
khốn khổ mới tính ra được ngày Âm lịch của tám ngày Tiết. Tám Ngày Tiết đó
không cố định như trong Dương lịch, mà mỗi năm một khác. Cho nên muốn biết Ngày
Tiết là ngày nào trong năm Âm lịch thì chỉ có một cách duy nhất là đọc Lịch của
năm đó.
Về sau người Trung Hoa có một cách xác định Ngày Tiết dễ
dàng hơn, khỏi phải tính toán phức tạp, là đem so sánh Âm – Dương lịch mà họ vất
vả tạo ra hàng năm, với Dương lịch của năm tương ứng, rồi gán Ngày Tiết của
Dương lịch vào Âm – Dương lịch của họ. Cho nên, Âm – Dương lịch vẫn gọi ngày Tiết
là của mình, các nhà in Lịch của Việt Nam cũng in ngày Tiết là của Âm – Dương lịch,
nhưng nếu chịu khó so sánh một chút, thì sẽ thấy 24 ngày Tiết “nhảy múa” lung
tung trong Âm lịch, nhưng luôn luôn trùng khớp với ngày Tiết cố định trong
Dương lịch.
Đại đa số người Việt Nam không biết về câu chuyện Ngày
Tiết này, cứ tưởng Ngày Tiết là của Âm lịch Trung Hoa. Ở Việt Nam ngay cả nhiều
Nhà làm Lịch cũng không biết điều này, nên khi in Lịch, Việt Nam in chung trong một
tờ lịch có cả phần Dương lịch và phần Âm lịch, nhưng lại cứ gán Ngày Tiết cho phần
Âm lịch.
Âm – Dương lịch của Trung Hoa còn thêm 16 ngày Tiết,
chen vào giữa tám Ngày Tiết kia, họ chia khoảng cách giữa hai Ngày Tiết của
Dương lịch làm ba phần đều nhau, rồi chèn thêm hai Ngày Tiết của họ. Thực ra 16
Ngày Tiết chèn vào này cũng giống 8 Ngày Tiết trên kia, họ không cần tính toán
mệt nhọc, mà chỉ cần so sánh với Lịch Tây để chọn ngày tương ứng.
-
Việc đặt tên năm:
Dương lịch không đặt tên riêng cho từng năm, mà gọi
năm theo thứ tự, từ năm số 1 trở đi, cách gọi tên này thật đơn giản, nhưng lại
vô cùng thuận lợi và chính xác, giúp người ta dễ dàng xác định được các sự kiện
xảy ra trong thời kì lịch sử nào của nhân loại, của dân tộc, của dòng họ, của
cá nhân.
Còn Âm – Dương lịch đặt tên theo “Thiên Can Địa Chi”: có
10 “Can”: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý, và 12 “Chi”: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ,
Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Tên của 1 năm được ghép bởi 1 từ thuộc “Can” và
1 từ thuộc “Chi”, ví dụ: năm Quang Trung lên ngôi Hoàng Đế, là năm Mậu Thân.
Cách đặt tên này không giúp người ta biết gì, ví dụ: không biết việc đấy cách
đây bao nhiêu năm, còn Lịch Tây ghi là năm 1788, rất dễ hiểu.
Cách đặt tên này còn qui định: 5 “Can” với số thứ tự lẻ
chỉ được ghép với 6 “Chi” với thứ tự lẻ, 5 “Can” với số thứ tự chẵn chỉ được
ghép với 6 “Chi” vói thứ tự chẵn. Kết quả là Âm – Dương lịch chỉ vẻn vẹn có 60
tên năm. Cứ sau 60 năm, tên năm lại bị lặp lại. Hậu qủa là, trong vòng 300 năm có 5 năm khác nhau nhưng lại
mang cùng 1 cái tên, trong vòng 2400 năm có 40 năm khác nhau nhưng lại mang
cùng 1 cái tên, biết đằng nào mà lần !
Có tên Can Chi của
năm rồi, để có thể xác định vị trí của năm đó trong chiều dài của Lịch sử, thì
Âm lịch phải kèm theo 1 Thông tin nữa, là năm ấy vào Đời Vua nào của Trung Hoa,
hoặc Đời Vua nào của Việt Nam, ví dụ: năm Quang Trung lên ngôi Hoàng Đế, là năm
Mậu Thân, phải thêm Thông tin : Đời Nhà Thanh Trung Hoa, Vua Thanh Cao Tông,
Niên hiệu Kiến Long, năm thứ 43. Khi có đủ 2 Thông tin này rồi, còn phài tra Bảng
đối chiếu giữa các Đời Vua với năm Dương lịch, kết quả đối chiếu sẽ là, Quang
Trung lên ngôi Hoàng Đế năm 1788.
Chuyện xác định năm
Âm lịch thật sự rắc rối, nhất là không phải ai cũng có Bảng tra đối chiếu giữa
các Đời Vua với năm Dương lịch.
Âm – Dương lịch cũng
không có căn cứ, không có cơ sở khoa học, khi đặt Tên cho Năm, ví dụ, tại sao
năm nay có tên là năm Nhâm Dần, năm sau có tên là năm Quý Mão, chắc chắn rằng
việc đặt Tên năm của Lịch này là hoàn toàn ngẫu nhiên, vô căn cứ.
Tên năm Can Chi còn
gây ra một hệ lụy rất đáng buồn, 12 Chi ứng với 12 con vật: Tý – Chuột, Sửu –
Trâu, Dần – Hổ, Mão – Mèo, Thìn – Rồng, Tỵ - Rắn, Ngọ - Ngựa, Mùi – Dê, Thân –
Khỉ, Dậu – Gà, Tuất – Chó, Hợi – Lợn.
Mê tín dị đoan cùng với
thói quen và niềm tin hoang sơ vào Âm lịch, đã khiến đa số người Việt Nam đinh
ninh rằng, ai sinh vào năm con vật nào, thì thân phận gắn liền với thân phận
con vật đó, nhiều người buồn vì số phận mình là số phận của loài Chó Lợn Trâu
Ngựa Chuột Gà, nhiều người hí hửng vì số phận mình là số phận của loài Rồng
loài Hổ!
- Việc đặt tên giờ:
Dương lịch chia mỗi
ngày thành 24 giờ, với 12 giờ buổi sáng (AM) và 12 giờ buổi chiều (PM), tên gọi
của mỗi giờ theo thứ tự, từ 0 giờ đến 23 giờ. Âm Dương Lịch chia mỗi ngày thành
12 giờ với những tên gọi riêng cho từng giờ, liên quan chặt chẽ với 24 giờ
Dương lịch: Giờ Tý từ 0 giờ đến hết 1 giờ, giờ Sửu từ 2 giờ đến hết 3 giờ, giờ
Dần từ 4 giờ đến hết 5 giờ, giờ Mão từ 6 giờ đến hết 7 giờ, giờ Thìn từ 8 giờ đến
hết 9 giờ, giờ Tỵ từ 10 giờ đến hết 11 giờ, giờ Ngọ từ 12 giờ đến hết 13 giờ,
giờ Mùi từ 14 giờ đến hết 15 giờ, giờ Thân từ 16 giờ đến hết 17 giờ, giờ Dậu từ
18 giờ đến hết 19giờ, giờ Tuất từ 20 giờ đến hết 21 giờ, giờ Hợi từ 22 giờ đến
hết 23 giờ. Hóa ra Âm lịch còn quy định giờ giấc trong một ngày cũng chịu chung
số mệnh với các loại vật Chó Lợn Trâu Ngựa Chuột Gà.
Hỡi ơi! Hóa ra, theo
Âm lịch thì hàng ngày mỗi chúng ta đều phải sống nhiều giờ trong thân phận Chó
Lợn Trâu Ngựa Chuột Gà Dê Khỉ.
8. Những nhận thức
sai về Âm lịch:
- Nhiều người nghĩ rằng
Âm lịch là của người Việt Nam, là hoàn toàn sai.
Từ khi người Trung
Hoa xâm lược và thống trị nước ta, họ ra sức đồng hóa nước ta về mọi mặt, văn
hóa, ngôn ngữ, vân vân, Riêng về ngôn ngữ, trong tiếng Việt mà chúng ta đang
nói hàng ngày hiện nay, có hơn 70% là tiếng Tàu, chỉ gần 30% là tiếng thuần Việt.
Với Vốn tiếng thuần
Việt mà chúng ta giữ lại được đến ngày nay, có thể thấy rằng, trước khi người
Trung Hoa xâm lược và thống trị nước ta, dân ta đã có những khái niệm rất rõ
ràng chính xác về giờ giấc, ngày đêm, năm, tháng, mùa, là những khái niệm cơ bản
để có thể làm nên Lịch, nhưng lúc đó dân ta chưa biết làm Lịch.
Tiếng Thuần Việt |
Tiếng Tàu |
Chữ
Tàu Phồn thể |
Chữ
Tàu Giản thể |
Giờ giấc |
Thời gian |
時間 |
时间 |
Ngày |
Nhật |
日 |
日 |
Tháng |
Nguyệt |
月 |
月 |
Năm |
Niên |
年 |
年 |
Mùa |
Thiên |
天 |
天 |
Buổi sáng sớm |
Tảo thượng |
早上 |
早上 |
Buổi sáng |
Thượng ngọ |
上午 |
上午 |
Buổi trưa |
Trung Ngọ |
中午 |
中午 |
Buổi chiều |
Hạ ngọ |
下午 |
下午 |
Buổi tối |
Vãn thượng |
晩上 |
晩上 |
Buổi đêm |
Dạ |
夜 |
夜 |
Mùa hè |
Hạ thiên |
夏天 |
夏天 |
Mùa lạnh, mùa rét |
Đông thiên |
冬天 |
冬天 |
Mùa mát mẻ |
Xuân thiên, thu thiên |
春天, 秋天 |
春天, 秋天 |
Tháng Giêng |
Nhất nguyệt |
一月 |
一月 |
Tháng chạp |
Thập nhị nguyệt |
十月 |
十月 |
Tết |
Xuân tiết,
nguyên đán |
春節, 元旦 |
春节, 元旦 |
Không có |
Lịch |
曆 |
历 |
Ngày Rằm |
Mãn Nguyệt |
滿月 |
满月 |
Nhiều người ngày nay
vẫn lầm tưởng như người cổ đại, rằng có hai thiên thể lớn nhất là Mặt trời và Mặt
trăng. Nhưng thực ra Mặt trời lớn gấp khoảng 10 triệu lần Mặt trăng, Mặt trời
là nguồn phát ra năng lượng và ánh sáng, còn Mặt trăng thì bé tẹo, không phát
ra ánh sáng, mà chỉ phản chiếu ánh sáng của Mặt trời. Mọi tác động lên thiên
nhiên và sinh quyển (kể cả Nông nghiệp) trên Mặt đất đều xuất phát từ Mặt trời.
Mặt trăng chỉ tác động lên Mặt đất hai việc, một là trăng sáng ban đêm, sáng nhất
là đêm Rằm, hai là thủy triều trên biển lên xuống theo tuần trăng, triều lên cực
đại vào ngày Rằm. Ngoài ra, một số loại sinh vật sống trong nước biển, về mặt
sinh học cũng chịu tác động của thủy triều, tức là tác động của Mặt trăng, ví dụ:
Tôm cua biển lột vỏ theo tuần trăng, vào ngày 24 Âm lịch.
Âm lịch phân chia thời
gian theo tuần trăng, ngày tháng của Âm lịch hoàn toàn phụ thuộc vào vị trí
tương đối giữa Mặt trăng và Quả đất, trong khi Mặt trăng không có tác dụng gì đối
với Nông nghiệp. Nhưng nhiều người Việt Nam vẫn gọi Âm lịch là Nông Lịch, kể cả
người Trung Hoa ngày nay (農曆, 农 历), và lầm tưởng,
tin rằng làm nghề Nông phải tuân thủ Âm lịch.
Cái lầm tưởng này có
lẽ xuất phát từ chỗ, Âm lich Trung Hoa có chèn thêm 16 Ngày Tiết, mà Dương lịch
không có, tên của 16 Ngày Tiết này nghe ra có vẻ liên quan đến Nông nghiệp và
trồng trọt, đó là:
1. Vũ thủy雨水: mưa ẩm ướt, mưa phùn, gió thổi nhẹ.
2. Kinh trập 驚蟄,惊蛰: sâu nở
3. Thanh minh: bầu trời quang đãng
4. Cốc vũ: mưa lớn
5. Tiểu mãn: lũ nhỏ
6. Mang chủng: thu hoạch ngũ cốc
7. Tiểu thử: nắng nhẹ
8. Đại thử: nắng nhiều
9. Xử thử: hết nóng
10. Bạch lộ: bắt đầu sương mù
11. Hàn lộ: sương mù lạnh giá
12. Sương giáng: sương mù dày đặc
13. Tiểu tuyết: Tuyết nhỏ
14. Đại tuyết: tuyết lớn
15. Tiểu hàn: hơi lạnh
16. Đại hàn: rất lạnh
Tên gọi và ý nghĩa của các Ngày Tiết
này chỉ phù hợp với 1 địa phương hẹp, chứ không phải phù hợp với toàn cầu, ví dụ:
các địa phương ở Bắc bán cầu hoàn toàn ngược với các địa phương ở Nam bán cầu,
hoặc ở Việt Nam hoàn toàn không có tuyết, ở Nam bộ Việt Nam không có Đại hàn,
Tiểu hàn như ở Bắc bộ.
Vì vậy thêm vào 16 ngày Tiết này, thực
chất Âm – Dương lịch chỉ liên quan chút ít đến nghề nông, nhưng liên quan này
chỉ đúng với 1 địa phương nhỏ hẹp.
- Bói toán theo Năm, Tháng, Ngày, Giờ
của Âm lịch là hoàn toàn dị đoan:
Các “Thầy” làm nghề bói toán, như
“Thầy bói”, “Thầy số”, “Thầy cúng”, “Thầy chùa”, đều lấy Năm, Tháng, Ngày, Giờ của
Âm lịch làm cơ sở gốc cho việc bói toán. Nhưng như đã phân tích ở trên (mục 10),
Âm lịch cứ 60 năm lại lặp lại, nghĩa là theo Âm lịch chu kỳ hoạt động của thiên
nhiên là 60 năm, điều này không hề có, không được ai chứng minh, mà chỉ là sự
quy định tùy tiện của Âm lịch. Kết quả là bói toán theo Năm, Tháng, Ngày, Giờ của
Âm lịch là không có căn cứ khoa học, không có căn cứ thực tiễn.
Tệ hơn nữa, Thầy bói, kể cả Thầy tướng
số Tử vi, khi coi bói số mệnh cả cuộc đời của một con người, chỉ lấy thông tin Năm,
Tháng, Ngày, Giờ ra đời của người đó. Nhưng Năm sinh, Tháng sinh, Ngày sinh, Giờ
sinh đều lại ứng với số phận của 1 trong 12 con súc vật, Chó Lợn Trâu Ngựa Chuột Gà Mèo Dê Khỉ …
9. Kiến nghị: Hoàn toàn bỏ Âm lịch, chỉ dùng
Dương lịch:
Từ những thông tin đã trình bày
trong 8 mục nói trên, chúng tôi thấy rằng Âm lịch chỉ khác Dương lịch ở một điểm
là cho mọi người biết ngày trăng tròn. Một số ít thông tin có cơ sở khoa học
thì chỉ là tương tự hoặc sao chép Dương lịch, còn lại là những thứ phi khoa học,
áp đặt vô căn cứ, không phù hợp với thực tế thiên nhiên và sinh thái trên Mặt đất.
Khi bỏ Âm lịch, thì trong Dương lịch
chỉ cần ghi thêm ngày trăng tròn. Việc này rất đơn giản, ai cũng có thể làm được.
Cách làm như sau:
Người ta đã biết thời
gian quay vòng của Mặt trăng quanh Quả đất là 29,534 ngày, là hơn 29 ngày rưỡi.
Khi đã biết một ngày nào đó là ngày trăng tròn, thì có thể xác định ngày trăng
tròn tiếp theo, sau 30 ngày, rồi tiếp theo là 29 ngày. Gọi 2 lần xác định này
là 1 nhịp (30 và 29 ngày), như vậy sau một nhịp sẽ thừa ra:
2 x 29,534 ngày – 2 x 29,5 ngày = 0,068 ngày.
Sau bao nhiêu nhịp sẽ
thừa ra trọn 1 ngày ?
Dễ dàng tính ra:
1/0,068 = 14,7 nhịp.
Như vậy cứ sau 14,7
nhịp x 2 lần = 29,4 lần ghi ngày trăng tròn, sẽ có thêm 1 ngày trăng tròn ở lần
thứ 30. Sau đó lại bắt đầu ghi nhận ngày trăng tròn theo nhịp 30 ngày, 29 ngày
như trước.
Vì vậy, chúng tôi mạo muội kiến nghị
Việt Nam sẽ loại bỏ hẳn Âm lịch, chỉ dùng Dương lịch.
Ở Trung Hoa, năm 1911 Lãnh tụ cách mạng
Tôn Trung Sơn, lãnh đạo thành công Cách mạng Tân Hợi, lật đổ chế độ phong kiến
hàng ngàn năm, lên ngôi Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc, đã ra lệnh chính quyền
nhà nước chỉ dùng Dương lịch, và khuyến cáo nhân dân không nên dùng Âm lịch.
Ở Việt Nam tháng 3/1945 Thủ tướng
Chính phủ Đế quốc Việt Nam Trần Trọng Kim đã quyết định tương tự như Tổng thống
Trung Hoa năm 1911.
Cũng ở Việt Nam, tháng 9/1945 Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã quyết định không dùng Âm lịch trong công vụ,
nhưng không khuyến cáo nhân dân không nên dùng Âm lịch.
Người Việt Nam có tục làm Giỗ Tổ
Tiên, với ý nghĩ rằng ngày Giỗ là ngày hàng năm tưởng nhớ người đã khuất, vào
đúng ngày ra đi.
Phong tục Việt Nam lại lấy ngày Âm lịch
làm ngày Giỗ. Nhưng như đã phân tích ở trên, một năm Âm lịch không đúng với một
năm của trời đất, ngày Giỗ của năm nay theo Âm lịch, và ngày Giỗ năm sau theo
Âm lịch sai lệch nhau hơn 10 ngày của tự nhiên, nghĩa là người Việt mỗi năm làm
Giỗ vào những ngày khác nhau, không đúng vào ngày mất của Tổ Tiên.
Hơn nữa, buộc phải có cuốn Âm lịch
thì mới biết ngày Giỗ của năm nay là ngày cụ thể nào, dù nhớ chính xác ngày Giỗ.
Cho nên, nếu người Việt không dùng
Âm lịch nữa, thì đương nhiên sẽ làm Giỗ Tổ Tiên vào ngày tháng Dương lịch của
ngày từ trần, như vậy thì Lễ Giỗ mới đúng là Lễ kỷ niệm ngày Cha ông đi
xa.
Người Việt Nam rất coi trọng ngày Tết,
coi ngày Tết là ngày Lễ lớn nhất và nhiều ý nghĩa nhất trong mỗi năm. Thực chất
ngày Tết chỉ là ngày mở đầu của một năm, ngày mồng một tháng giêng. Từ khi người
Việt Nam dùng Lịch của người Tàu, thì bắt đầu ăn Tết vào ngày mồng một tháng
giêng của Lịch Tàu, ngày đó người Tàu gọi là Nguyên Đán (元旦, nghĩa
là ngày thứ nhất), hoặc là Xuân Tiết (春節, 春节, nghĩa là ngày lễ
mùa Xuân), và người Việt Nam cũng gọi ngày Tết là Tết Nguyên Đán. Như đã phân
tích ở trên ngày tháng theo Âm lịch không gắn liền với trời đất, thiên nhiên,
khí hậu, nên hàng ngàn năm nay dân tộc ta ăn Tết vào ngày vô định so với thiên
nhiên, trời đất.
Bỏ Âm lịch, chỉ dùng Dương lịch, thì
ngày Tết vẫn là ngày đầu năm, đương nhiên là ngày đầu năm Dương lịch. Ngày Tết
cổ truyền vô cùng ý nghĩa của chúng ta vẫn giữ được nguyên vẹn, là ngày Tết Lễ đầu
năm, là Nguyên Đán, không mất mát thay đổi gì cả.
Nhân đây xin nói thêm một chút, năm
2005 GS TS Võ Tòng Xuân, một Nhà Khoa học lớn, một Nhà yêu nước chân chính, một
người đã có nhiều cống hiến lớn cho nền Khoa học của Việt Nam và của nhân loại,
đã đề xuất “ bỏ ăn Tết Âm lịch, chỉ ăn Tết Dương lịch”. Ý tưởng này đã làm xôn
xao ầm ĩ công luận, với 1 phe ủng hộ và 1 phe phản đối. Cho đến gần đây có người
còn kiến nghị Nhà nước tước bỏ Học hàm Học vị của GS Xuân, có người còn kiến
nghị thu hồi lương hưu của Cụ.
Thực ra, nếu Cụ Xuân chỉ đề nghị “bỏ
dùng Âm lịch, chỉ dùng Dương lịch”, thì chắc mọi việc sẽ ổn thỏa, KHÔNG AI CÓ
LÝ SỰ GÌ ĐỂ PHẢN ỨNG NGƯỢC !
HY VỌNG KIẾN NGHỊ TRÊN SẼ ĐƯỢC MỌI
NGƯỜI ỦNG HỘ !
No comments:
Post a Comment