Wednesday, January 11, 2023

NĂM 2023 THÁNG 01 NGÀY 11


KIẾN NGHỊ CẢI TIẾN DƯƠNG LỊCH
 
TS. Nguyễn Bách Phúc
Chủ Tịch Hội TV KHCN & QL HASCON
Viện Trưởng Viện Điện – Điện tử - Tin học EEI

 

1. DƯƠNG LỊCH LÀ GÌ?

Dương lịch là việc phân chia sắp xếp thời gian thành Ngày, Tháng, Năm, theo vòng quay của Trái đất quanh Mặt trời. “Dương lịch” tiếng Anh là “Calendar”; tiếng Nga là “календарь”, tiếng Trung Quốc là “日曆” (“Nhật lịch”, nghĩa là “Lịch Mặt trời”).

2. TẠI SAO NGƯỜI VIỆT NAM LẠI GỌI “ÂM LỊCH” VÀ “DƯƠNG LỊCH”?  

Hai từ này là tiếng Hán, chứ không phải là tiếng Việt, “Lịch” (, ) trong tiếng Hán là “sắp xếp giờ giấc”; “Dương” (, ), và “Âm” (, ) là hai Từ của Kinh Dịch xưa của người Tàu. Kinh Dịch cho rằng mọi vật, mọi hiện tượng trong Vũ trũ này được tạo thành bởi hai mặt đối lập, gọi là hai mặt “Dương” và “Âm”, ví dụ “Con người và mọi sinh vật” đều gồm hai giới, “Dương” là đàn ông, là giống đực, “Âm” là đàn bà, là giống cái.

Thiên văn cổ với hiểu biết thô sơ, cho rằng Trái đất là trung tâm Vũ trụ, có hai thiên thể lớn nhất Vũ trụ là Mặt trăng và Mặt trời, còn hàng vạn Vì sao đều nhỏ xíu, được đính vào Vòm Trời, và họ còn nghĩ rằng Mặt trăng và Mặt trời là hai vật thể đối lập, họ gọi Mặt trời là “Thái Dương”, Mặt trăng là “Thái Âm”, với chữ “Thái” () trong tiếng Tàu nghĩa là “rất lớn”, “vượt mức”

Từ xưa người Trung Hoa đã biết làm Lịch, theo vòng quay của Mặt trăng quanh Trái đất. Về sau, tới khi người Trung Hoa tiếp thu Lịch Mặt trời của Phương Tây, thì họ gọi Lịch Phương Tây là “Nhật lịch” (日曆, 日历) hoặc đôi khi gọi là “Dương lịch” ((陽曆, 阳历), và gọi Lịch của họ là “Âm lịch” (陰历, 阴历) và đôi khi gọi “Nguyệt lịch” (月曆, 月历).

Người Việt Nam học theo tiếng nói của người Trung Hoa, là Âm lịch và Dương lịch. Còn đôi khi gọi Dương lịch “Lịch Tây”, gọi “Âm lịch” là “Lịch Ta”. Thực ra nói “Lịch Ta” là không chính xác, vì không có Lịch của người Việt Nam, mà chỉ có Lịch Tây của người Tây và Lịch Tàu của người Tàu.

3. NHỮNG NÉT CỐT LÕI CỦA VIỆC LÀM LỊCH

Thứ nhất, xác định Thời lượng của 1 ngày đêm:

Người ngày xưa, và kể cả chúng ta ngày nay, không ai “thấy” được Trái đất quanh Mặt trời, mà chỉ thấy Mặt trời và Mặt trăng cùng quay quanh Mặt đất, mỗi ngày đêm được 1 vòng. Người ta đo đạc thời gian này, gọi là Thời lượng của 1 ngày đêm, và quy định Thời lượng đó bằng 24 Giờ.

Thứ hai, xác định Thời lượng của 1 năm:

Người xưa, kể cả Phương Đông và Phương Tây, quan sát sự biến đổi của thiên nhiên, khí hậu, sinh thái trên Mặt đất. thấy rằng sự biến đổi này lặp lại, chu kỳ lặp lại khoảng 360 ngày, người ta gọi đó là 1 Năm

Đến Thế kỷ 18, Khoa học của nhân loại khẳng định Trái đất quanh Mặt trời, và khẳng định Thời lượng của 1 năm chính là Khoảng thời gian Trái đất quay được 1 vòng quanh Mặt trời.

Thứ ba: Qui định số tháng của một năm, để tính ra số ngày của 1 tháng

Thứ tư: Qui định Tên gọi của năm, để xác định vị trí của một năm cụ thể trong suốt hàng ngàn triệu năm.

Thứ năm: Qui định một ngày làm ngày đầu năm

4. LỊCH MẶT TRỜI LA MÃ:

Hơn hai ngàn hai trăm năm trước, người Tây, trong Lịch La Mã, tuy không biết rằng Quả đất quay quanh Mặt trời, nhưng họ quan sát thấy Chu kỳ biến đổi của thiên nhiên, khí hậu, sinh thái trên Mặt đất là khoảng 365 ngày.

Người cổ La Mã làm cách nào để đo được chính xác Thời gian này ?

Họ liên tục quan sát Bầu trời sao, thấy hàng vạn ngôi sao nhỏ xíu lung linh được gắn chặt cố định trên Vòm trời, không bao giờ dịch chuyển khỏi vị trí của mình, gọi chúng là những Định Tinh (Tiếng Tàu: “Định” là cố định, không di chuyển, “Tinh” là Sao). Riêng Mặt trời và dăm ngồi sao nữa, thì không đứng yên, mà “đi lang thang” giữa các chòm Định tinh, Cuộc “đi lang thang” này, sau một thời gian thì sẽ trở lại Vị trí ban đầu, rồi lại tiếp tục lặp lại vòng “đi lang thang”, theo lộ trình cố định.

Người ta đo được Chu kỳ “đi lang thang” của Mặt trời là 365 ngày và 6 giờ. Rất khớp với Chu kỳ biến đổi của thiên nhiên, khí hậu, sinh thái trên Mặt đất.

Và họ đã quyết định Thời lượng của 1 năm là 365 ngày và 6 giờ

Nhưng khi làm Lịch, người La Mã chia mỗi năm ra 12 tháng, theo tuần trăng (tương tự như Âm lịch Trung Hoa nguyên thủy), mỗi năm dư ra 11 ngày. Việc xử lý 11 ngày này của người La Mã vô cùng phức tạp, Hoàng đế La Mã sẽ ra quyết định cho từng năm, có năm thêm 1 tháng nhuận, có năm không thêm tháng nhuận, số lượng ngày của tháng nhuận cũng qui định theo ý thích của Hoàng đế, thậm chí có những năm Hoàng đế quên xử lý việc này. Cho nên, ngày tháng trong Lịch La Mã rất lộn xộn, số ngày của mỗi năm không nhất thiết 365 ngày mà khi nhiều khi ít, thậm chí để bù vào những năm Hoàng đế quên xử lý, có năm lên tới hơn 400 ngày!

Lại còn, Lịch La Mã chọn ngày đầu của năm là ngày lên ngôi của một vị Hoàng đế, và đánh số thứ tự năm trong thời gian trị vì của vị Hoàng đế đó. Điều này cũng dẫn đến nhiều hệ lụy vô cùng rắc rối phức tạp.

5. LỊCH MẶT TRỜI JULIUS:

Năm 46 trước Công nguyên Hoàng đế Julius Cesar quyết định cải tiến Lịch La Mã:

-        Khẳng định mỗi năm có 365 ngày và 6 giờ

-        Khẳng định mỗi năm có 12 tháng,

-        Quy định chặt chẽ số ngày của mỗi tháng:

Tháng giêng 31 ngày, tháng hai 28 ngày, tháng ba 31 ngày, tháng tư 30 ngày, tháng năm 31 ngày, tháng sáu 30 ngày, tháng bảy 31 ngày, tháng tám 31 ngày, tháng chín 30 ngày, tháng mười 31 ngày, tháng mười một 30 ngày, tháng mười hai 31 ngày.

Tổng cộng mỗi năm 365 ngày

-        Xử lý 6 giờ lẻ của mỗi năm: Nếu lấy tròn một năm chỉ 365 ngày, thì mỗi năm sẽ thiếu đi 6 giờ, sau 4 năm sẽ thiếu đi 24 giờ, bằng 1 ngày. Việc này dẫn đến 1 hệ quả nghiêm trọng, là sau 120 năm Lịch sẽ bị sai lệch mất 1 tháng, và sau (120 năm x 6) = 720 năm Lịch sẽ lệch đi 6 tháng, nghĩa là đảo lộn 4 mùa, mùa đông vào tháng 6 và mùa hè vào tháng 12. Lịch Julius đã giải quyết chuyện này bằng cách quy định, cứ 4 năm thì thêm 1 ngày vào ngày tiếp theo của ngày 28 tháng 2 gọi là ngày 29 tháng 2.

Người Việt Nam nói theo tiếng Tàu, gọi ngày “thừa” này là ngày “nhuận ” và tháng 2 Dương lịch là tháng “nhuận”. Tiếng Tàu, chữ “Nhuận” “” nghĩa là “xen vào giữa, thừa ra”.

-        Qui định mỗi tuần có 7 ngày, mỗi ngày có 24 giờ.

Cải cách của Lịch Julius đã giúp đơn giản hóa và chính xác hóa những quy định về Ngày và Tháng, về ngày nhuận.

Nhưng Lịch Julius vẫn giữ cách xác định Tên năm và Ngày đầu tiên của năm theo kiểu Lịch La Mã, vẫn rất phức tạp rắc rối.

Vài trăm năm sau khi Giê – su chết, Giáo hội Phương Tây thống nhất chọn 1 thời điểm làm Ngày đầu tiên của Dương lịch Julius. Họ đã chọn Ngày, sau ngày sinh của Giê – su 1 tuần, gọi là Ngày Đầu tiên của Dương lịch, họ đã chuyển ngày sinh của Giê – su theo Lịch Julius thành ngày 25/12 năm thứ -1, kết quả là sau đó 7 ngày trở thành Ngày mồng một tháng giêng năm thứ nhất (số 1) của Công nguyên.

Giáo hội quy định Tên của năm theo số thứ tự của năm, từ số 1 trở đi. Nhờ quy định Tên năm giản dị và chính xác như vậy, nên người ta có thể dễ dàng xác định vị trí của một năm cụ thể trong suốt hàng ngàn hàng triệu năm.

6. LỊCH MẶT TRỜI GREGORIUS:

Khoảng đầu thế kỷ thứ 14 người Phương Tây đo đạc lại, kết quả là Chu kỳ “đi lang thang” của Mặt trời chính xác hơn số cũ trước Công nguyên, không phải là 365 ngày 6 giờ, mà là 365 ngày 5 giờ 48 phút 16 giây. So với số đo cũ, 365 ngày 6 giờ, thì ít hơn:

6 giờ - (5 giờ 48 phút 16 giây) = 11 phút 44 giây.

Như vậy, theo Lịch Julius thì thực tế mỗi năm thừa ra 11 phút 44 giây. Tuy số lượng thời gian thừa nay rất nhỏ so với thời gian của cả 1 năm, nhưng nếu không khắc phục, thì sau nhiều năm Lịch sẽ sai rất nhiều so với thực tế của thiên nhiên.

Thử tính sai lệch này trong 400 năm:

(11 phút 44 giây) x 400 năm = 78 giờ = 3 ngày + 6 giờ.

Như vậy cứ 400 năm sẽ thừa ra 3 ngày và 6 giờ.

Tính từ đầu Công nguyên đến năm 1570 đã thừa ra 10 ngày

  Giáo hoàng Gregory XIII (1502 - 1585) quyết định sửa Lịch như sau:

-       Bỏ đi 10 ngày thừa này, cụ thể là, tiếp sau ngày 4/10/1582 không phải là ngày 5/10/1582, mà sẽ là ngày 15/10/1582.

 -  Và quy định cách bỏ đi những ngày thừa trong tương lai: cứ 400 năm (4 Thể kỉ) thì bỏ bớt đi 3 ngày nhuận 29/2 của 3 Thế kỉ. Ba ngày bị bỏ này được qui định là ngày nhuận đầu của năm đầu tiên, của những Năm có số thứ tự không chia hết cho 400.  Cụ thể là năm 1600 có ngày nhuận, năm 1700, 1800, 1900 không có ngày nhuận, năm 2000 có ngày nhuận, năm 2100, 2200, 2300 không có ngày nhuận, năm 2400 có ngày nhuận, v. v. . .

-  Qui định này giúp bỏ bớt được 3 ngày x 24 giờ = 72 giờ. Vẫn còn dư 6 giờ, vẫn còn phải tìm cách bỏ đi 6 giờ này.

 400 năm còn dư 6 giờ, vậy thì phải mất bao nhiêu năm để số dư tròn 24 giờ của 1 ngày:

24 giờ/ 6 giờ x 400 năm = 1600 năm.

Từ đây Giáo hội La mã còn thêm 1 qui định, cứ 16 thế kỷ, 1600 năm, thì phải bỏ thêm 1 ngày nhuận. Cụ thể là năm 1600 +1600 = năm 3200 sẽ không nhuận.

Nước Việt Nam và phần lớn các nước trên Thế giới ngày nay đang dùng Lịch Gregorius này.

Câu chuyện Lịch cũ Lịch mới này đã dẫn đến nhiều chuyện “tréo ngoe” trong Lịch sử, ví dụ: “Cách mạng tháng 10 Nga” ngày 25/10/1917 lại diễn ra vào ngày 7/11/1917.

Khoảng Thế kỉ thứ 8 đã phát sinh mâu thuẫn rất lớn trong nội bộ Giaó hôi, Giáo hội Giê – su bị chia làm hai, Giáo hội Phương Tây với trung tâm là Thành phố La mã (Rôm, nước Ý), và Giáo hôi Phương Đông, với trung tâm là Thành phố Constantinop. Nguyên nhân của sự phân chia là, phe Phương Đông phê phán phe Phương Tây về những “cải cách”, mà theo họ đã hủy hoại Giáo lý cơ bản của Giê – su, còn phe Phương Đông kiên trì giữ nguyên Giáo lý cơ bản của Giê – su, tự cho mình là “Chính thống giáo”.

Một trong những phê phán của Phương Đông, là Phương Tây đã sửa đổi Lịch Julius thành Lịch Grigorius. Chính thống Phương Đông kiên trì sử dụng Lịch cũ. Trung tâm của phe Phương Đông khoảng thế kỉ thứ 13 đã chuyển sang Thành phố Moscow của Đế quốc Nga. Nhà nước Nga cũng chỉ công nhận Lịch cũ.

Đến đầu Thế kỉ 20 Lịch mới đã bỏ đi 13 ngày nhuận (10 ngày bỏ đi trong năm 1582, 3 ngày của năm 1700, 1800, 1900), dẫn đến kết quả là Lịch mới “chạy trước” Lịch cũ 13 ngày, ngày 7/11/1917 chạy trước ngày 25/10/1917 đúng 13 ngày.

7. BỐN MÙA CỦA MỖI NĂM, VÀ 8 NGÀY TIẾT:

Cho đến thế kỉ 18 con người vẫn chưa giải thích được tại sao một năm lại có 4 mùa, 4 mùa của Nửa Bắc Trái đất và của Nửa Nam Trái đất lại ngược nhau.

Thế kỉ thứ 18, nhờ sự phát triển của nhiều ngành khoa học kỹ thuật, loài người mới xác định được những thông tin chính xác của Mô hình Hệ Mặt trời, trong đó Trái đất là 1 trong 9 Hành tinh quay quanh Mặt trời.

Trái đất tự quay xung quanh theo trục Bắc – Nam, 1 vòng hết 24 giờ, tạo ra ngày và đêm.

Đồng thời, Trái đất quay quanh Mặt trời, trong 365 ngày và gần 6 giờ thì được tròn 1 vòng, tạo thành 1 năm.

Mặt phẳng mà Trái đất “đi” quanh Mặt trời gọi là Mặt phẳng Hoàng đạo, là Mặt phẳng cố định trong không gian, “Vết đường đi” của Trái đất quanh Mặt trời, mà người Việt nói theo tiếng Tàu là “Qũy đạo” (軌道, 轨道) của Trái đất, là một vòng gần tròn, với tâm là Mặt trời, và bán kính là khoảng cách từ Mặt trời đến Trái đất, gần 150 triệu km.

Trong suốt quá trình quay quanh Mặt trời, trục tự quay Bắc – Nam của Trái đất luôn giữ một Phương không đổi, Phương này lệch với mặt phẳng Hoàng đạo 23 độ rưỡi. Điều này hết sức quan trọng, nhờ có độ lệch này mà trên Mặt Quả đất mới có 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Nếu không có độ lệch này thì trên Mặt đất không có 4 mùa, quanh năm khí hậu như nhau.

Trên vòng tròn “đường đi” của Quả đất, có 2 điểm đặc biệt, ở đó, trục tự quay của Trái đất nghiêng thẳng vào Mặt trời.

Điểm đặc biệt thứ nhất:

Khi nửa phía Bắc của trục Bắc – Nam nghiêng thẳng vào Mặt trời thì “Nửa phía Bắc của Quả đất” (người Việt nói theo tiếng Tàu là “Bắc bán cầu” 北半求) cũng nghiêng thẳng vào Mặt trời. Tại đây Nửa phía Bắc của Quả đất nhận được nhiều nhất ánh sáng và sức nóng của Mặt trời, đó chính là thời điểm chính giữa mùa Hè. Người Việt Nam nói theo người Tàu, gọi thời điểm này là Hạ chí (“夏至”) của Bắc bán cầu, với chữ “Hạ” nghĩa là mùa Hè, chữ “chí” nghĩa là nhiều nhất, cao nhất, hết cỡ.

Cũng thời điểm này, nửa trục phía Nam sẽ choãi xa ra khỏi Mặt trời, “Nửa phía Nam của Quả đất” (người Việt nói theo tiếng Tàu là “Nam bán cầu” 南半求) cũng nghiêng xa Mặt trời, Nửa phía Nam của Quả đất nhận được ít nhất ánh sáng và sức nóng của Mặt trời, đó chính là thời điểm chính giữa mùa Đông. Người Việt Nam nói theo người Tàu, gọi thời điểm này là Đông chí (“冬至”) của Nam bán cầu, với chữ “Đông” nghĩa là mùa Đông, chữ “chí” nghĩa là nhiều nhất, cao nhất, hết cỡ.

Chuyện này giải thích lý do vì sao nửa Bắc và nửa Nam của Quả đất lại ngược nhau về mùa, khi nửa Bắc là mùa Hè, thì nửa Nam là mùa Rét (mùa Đông).

Tương ứng với vị trí của điểm này, là ngày 21/6 Dương lịch, người ta gọi theo tiếng Tàu là “ngày Hạ chí” hoặc “Tiết hạ chí” của Bắc bán cầu, ngày “Đông chí” hoặc “Tiết đông chí” của Nam bán cầu.

Khi Trái đất tự quay 1 vòng, thì 1 nửa Trái đất hướng về phía Mặt trời sẽ được chiếu sáng, là ban ngày, và nửa Trái đất còn lại không được chiếu sáng, là ban đêm. Thời gian ban ngày và ban đêm của toàn Trái đất là bằng nhau, 12 giờ ban ngày và 12 giờ ban đêm.

Nhưng do trục Bắc – Nam của Trái đất nghiêng với Mặt phẳng Hoàng đạo, dẫn đến kết quả là ở mỗi vĩ độ của Mặt đất, khoảng thời gian ban ngày và khoảng thời gian ban đêm không bằng nhau. Vào mùa hè vĩ độ càng cao thì thời gian ban ngày càng nhiều thời gian ban đêm càng ít, ở vĩ độ cao gần cực, sẽ có những đêm trắng, nghĩa là thời gian ban ngày 24 tiếng, còn thời gian ban đêm bằng không.

Vào mùa đông vĩ độ càng cao thì thời gian ban ngày càng ít, thời gian ban đêm càng nhiều, ở vĩ độ cao gần cực, sẽ có những ngày đen, nghĩa là thời gian ban ngày bằng không, còn thời gian ban đêm là 24 tiếng.

Ở bất cứ vĩ độ nào của Mặt đất, ngày Hạ chí là ngày có thời gian ban ngày nhiều nhất, thời gian ban đêm ít nhất; ngày Đông chí là ngày có thời gian ban ngày ít nhất, thời gian ban đêm nhiều nhất.

Điểm đặc biệt thứ hai:

Đối xứng với điểm thứ nhất qua tâm Mặt trời, cách điểm thứ nhất 180 độ.

Khi nửa phía Nam của trục Bắc – Nam nghiêng thẳng vào Mặt trời thì “Nửa phía Nam của Quả đất” (người Việt nói theo tiếng Tàu là “Nam bán cầu” 南半求) cũng nghiêng thẳng vào Mặt trời. Tại đây Nửa phía Nam của Quả đất nhận được nhiều nhất ánh sáng và sức nóng của Mặt trời, đó chính là thời điểm chính giữa mùa hè. Người Việt Nam nói theo người Tàu, gọi thời điểm này là Hạ chí (“夏至”) của Nam bán cầu, với chữ “Hạ” nghĩa là mùa Hè, chữ “chí” nghĩa là nhiều nhất, cao nhất, hết cỡ.

Cũng thời điểm này, Nửa trục phía Bắc sẽ choãi xa ra khỏi Mặt trời, “Nửa phía Bắc của Quả đất” (người Việt nói theo tiếng Tàu là “Bắc bán cầu” 北半求) cũng nghiêng xa Mặt trời, Nửa phía Bắc của Quả đất nhận được ít nhất ánh sáng và sức nóng của Mặt trời, đó chính là thời điểm chính giữa mùa Đông. Người Việt Nam nói theo người Tàu, gọi thời điểm này là Đông chí (“冬至”) của Bắc bán cầu, với chữ “Đông” nghĩa là mùa Đông, chữ “chí” nghĩa là nhiều nhất, cao nhất, hết cỡ.

Tương ứng với vị trí của điểm này, là ngày 21/12 Dương lịch, người ta gọi theo tiếng Tàu là “ngày Đông chí” hoặc “Tiết đông chí” của Bắc bán cầu, ngày “Hạ chí” hoặc “Tiết hạ chí” của Nam bán cầu.

Ngoài hai điểm trên, còn có hai điểm cũng rất đặc biệt, hai điểm này nằm giữa hai điểm kể trên, nghĩa là bốn điểm cách nhau  ¼ vòng tròn, mỗi điểm cách nhau 90 độ.

Đặc điểm của hai điểm này là trục tự quay Bắc – Nam không hướng vào Mặt trời và cũng không choãi ra ngoài Mặt trời. Nhờ vậy mà nửa Bắc và nửa Nam của Trái đất tiếp nhận ánh sáng và sức nóng của Mặt trời ngang nhau, không tạo thành mùa nóng và mùa lạnh, mà nói chung khí hậu của cả hai Nửa Quả đất ôn hòa mát mẻ.

Điểm nằm giữa điểm thứ nhất và điểm thứ hai, là điểm “Thu phân” của Bắc bán cầu, và cũng là điểm “Xuân phân” của Nam bán cầu, vào ngày 21/9 Dương lịch. Người Việt Nam nói theo tiếng Tàu là ngày “Thu phân” hoặc “Tiết thu phân” và ngày “Xuân phân” hoặc “Tiết xuân phân”.

Điểm nằm giữa điểm thứ hai và điểm thứ nhất, là điểm “Xuân phân” của Bắc bán cầu và cũng là điểm “Thu phân” của Nam bán cầu, vào ngày 21/3 Dương lịch.

Dương lịch còn qui định bốn Ngày Tiết: ngày bắt đầu Mùa Xuân là ngày Lập Xuân, vào ngày 5/2 Dương lịch, ngày bắt đầu Mùa Hè là ngày Lập Hạ, vào ngày 6/5 Dương lịch, ngày bắt đầu Mùa Thu là ngày Lập Thu, vào ngày 6/8 Dương lịch, ngày bắt đầu Mùa Đông là ngày Lập Đông vào ngày 6/11 Dương lịch.

Tám ngày Tiết của Dương lịch tương ứng với những vị trí cố định trên vòng tròn đường đi của Trái đất, nhưng do có những năm Nhuận, nên những ngày nói trên có thể sai lệch 1, 2 ngày.

8. ƯU ĐIỂM CỦA “DƯƠNG LỊCH”:

- Việc làm Lịch:

Làm Lịch Tây vô cùng đơn giản, chỉ cần tuân thủ 1 số qui định như đã nói ở phần trên (mục 5). Nên bất cứ ai cũng có thể “nhắm mắt” viết ra đầy đủ chính xác Lịch của một năm nào đó, của quá khứ và cả của tương lai.

-        Việc đặt tên năm:

Dương lịch không đặt tên riêng cho từng năm, mà gọi năm theo thứ tự, từ năm số 1 trở đi, cách gọi tên này thật đơn giản, nhưng lại vô cùng thuận lợi và chính xác, giúp người ta dễ dàng xác định được các sự kiện xảy ra trong thời kì lịch sử nào của nhân loại, của dân tộc, của dòng họ, của cá nhân.

- Việc đặt tên giờ:

Dương lịch chia mỗi ngày thành 24 giờ, với 12 giờ buổi sáng (AM) và 12 giờ buổi chiều (PM), tên gọi của mỗi giờ theo thứ tự, từ 0 giờ đến 23 giờ.

9. KIẾN NGHỊ CẢI TIẾN HAI ĐIỂM TRONG DƯƠNG LỊCH HIỆN NAY:

Nước Việt Nam và phần lớn các nước trên Thế giới ngày nay đang dùng Lịch Tây Gregorius, được Giáo hoàng Gregory XIII quyết định và công bố năm 1582, đén nay (năm 2023) đã 441 năm. Sử dụng Lịch Tây Gregorius 441 năm qua, Nhân loại hài lòng với Lịch này , không có một đè xuất cải tiến nào !

Dương lịch hiện nay, như đã phân tích ở trên, là hết sức khoa học, hết sức hoàn chỉnh, hết sức thuận lợi cho người dùng.

Nhưng chúng tôi thấy  có hai điểm chưa thuận tiện. Xin được mạo muội kiến nghị cải tiến .

 

KIẾN NGHỊ CẢI TIẾN THỨ NHẤT:

ĐIỀU CHỈNH CHÚT ÍT ĐỂ CÓ ĐƯỢC BẢN LỊCH CHUẨN, DÙNG CHO MUÔN NĂM, MUÔN ĐỜI.

 

Mỗi năm có 365 ngày hoặc 366 ngày, trong khi mỗi tuần lễ có 7 ngày, mỗi năm có 365/7 ngày thành 52 tuần lễ, dư 1 ngày, dẫn đến tình trạng, “Thứ trong tuần” của “Ngày, Tháng” năm nay sẽ lệch 1 “Thứ” với “Thứ trong tuần” của cùng “Ngày, Tháng” của năm sau, ví dụ: ngày mồng một tháng Giêng năm 2023 là ngày Chủ nhật, thì ngày mồng một tháng Giêng năm 2024 sẽ là ngày Thứ hai.

Điểm này làm mất tính đồng nhất của Dương lịch, Lịch năm này vẫn khác Lịch năm nọ, gây bất tiện cho người dùng, và hàng năm nhân loại phải in nàng tỷ cuốn Lịch riêng cho từng năm.

Có một cách khắc phục, hết sức đơn giản, là quy định Ngày cuối cùng của năm, Ngày 31/12, sẽ được đặt tên bằng một tên riêng nào đó, không nằm trong bảy “Thứ” của tuần lễ, ví dụ đặt tên là “Thứ Cuối năm”, thì tuần lễ cuối cùng của năm sẽ có 8 ngày, và Ngày mồng một tháng một của năm sau sẽ cùng Thứ với Ngày mồng một tháng một của năm trước. Kết quả là, tất cả các Ngày Tháng của năm sau sẽ có cùng Thứ với tất cả Ngày Tháng của năm trước, Lịch sẽ là đồng nhất cho mọi năm.

Với cải tiến này, còn phải có thêm quy định cho năm có nhuận: “Ngày nhuận” 29/2 cũng sẽ có tên “Thứ” riêng, ví dụ “Thứ nhuận” , chứ không phải là “Thứ” tiếp theo của Ngày 28/2, và như vậy, Tuần lễ có Ngày nhuận sẽ có 8 ngày. Kết quả là, tất cả các Ngày Tháng của NĂM CÓ NHUẬN SAU sẽ có cùng Thứ với tất cả Ngày Tháng của NĂM CÓ NHUẬN TRƯỚC

Như vậy, Dương Lịch sẽ chỉ có 2 Bản , 1 Bản cho NĂM KHÔNG NHUẬN, và1 Bản cho NĂM CÓ NHUẬN, dùng cho muôn đời !

Quy định Tuần lễ cuối năm có 8 ngày, 8 “Thứ”, và tuần lễ có Ngày nhuận có 8 ngày, 8 “Thứ”, là hoàn toàn không có gì “khác thường”, vì cũng giống như trong Dương lịch hiện nay, quy định năm nhuận có 29 Ngày.

 

KIẾN NGHỊ CẢI TIẾN THỨ HAI:

CHỌN NGÀY ĐẦU TIÊN CỦA NĂM, CHỌN NGÀY MỒNG MỘT THÁNG GIÊNG.

 

Dương lịch hiện nay quy định Ngày mồng một tháng giêng là ngày sau Ngày sinh của Giê – su một tuần lễ, có lẽ quy định này thể hiện sự tôn trọng của Giáo hội đối với ông Giê – su, nhưng không liên quan gì đến khí hậu thời tiết và sinh thái trên mặt đất.

Nhân loại thường nghĩ: “Năm Mới bắt đầu từ mùa Xuân”, nhưng ngày mồng một tháng giêng Dương lịch hiện nay, ngày đầu tiên của Năm mới, lại là giữa mùa Đông, chỉ sau ngày Đông chí (21/12) có 11 ngày.

Chúng tôi cho rằng NÊN CHỌN NGÀY ĐẦU TIÊN CỦA 1 NĂM, LÀ NGÀY LẬP XUÂN, theo lịch hiện nay là ngày 6/2.

Cải tiến này sẽ không gây ra hệ lụy rắc rối nào cho Nhân loại. Có chăng chỉ ảnh hưởng đến Hệ thống Tin học của Thế giới, tựa như Sự cố Y2K năm 2000, sự cố đã được khắc phục êm đẹp, không gây ra hậu họa nào.

HY VỌNG 2 KIẾN NGHỊ TRÊN SẼ ĐƯỢC MỌI NGƯỜI ỦNG HỘ !

No comments:

Post a Comment