Giáo sư Trần Văn Thọ, Đại học Waseda, Tokyo chia sẻ với Đất Việt xung quanh câu chuyện "Biệt đãi FDI, Việt Nam nhận được gì?".
Ưu đãi FDI, phải dành phần cho doanh nghiệp trong nước!
PV:- Thưa Giáo sư, mới đây, Bộ Tài chính đã đồng tình với đề xuất ưu đãi thuế cho dự án nhà máy lọc dầu Nhơn Hội (Bình Định) của tập đoàn PTT (Thái Lan). Dù khẳng định việc này đúng luật nhưng Bộ Tài chính cũng cho biết, "cứ ưu đãi còn người Việt Nam sẽ được hưởng gì từ nhà máy này còn chưa rõ". Điều này đã từng xảy ra ở dự án Formosa, các dự án FDI Trung Quốc (mang cả lao động phổ thông sang Việt Nam)... Vậy sự ưu đãi nói trên nhằm vào mục tiêu gì và mang lợi ích cho ai, thưa Giáo sư?
Giáo sư Trần Văn Thọ: - Một số ý trong câu hỏi này tôi không rõ lắm. Có đúng là Bộ Tài chính cho biết “cứ ưu đãi còn người Việt Nam hưởng gì từ nhà máy này còn chưa rõ” không? Tôi không nghĩ là một quan chức nào đó ở Bộ Tài chánh lại vô trách nhiệm như vậy.
Nhưng đúng là đã có nhiều dự án FDI cho thấy những quan chức liên quan đã thiếu trách nhiệm, chỉ chạy theo thành tích về lượng (về số dự án, về vốn đăng ký), không kể đến những tiêu cực có thể có trong quá trình xét duyệt, cấp các giấy phép cho một số dự án (thật khó hiểu vì sao các dự án FDI của Trung Quốc có thể mang lao động phổ thông nhiều như vậy vào Việt Nam).
Lẽ ra khi xét duyệt các dự án để xem có nên cấp giấy phép hay không và nếu cấp phép thì theo những điều kiện nào để có lợi nhất cho việc phát triển kinh tế nước nhà.
Việc xem xét, quyết định về các dự án FDI là cả một nghệ thuật về chiến lược, chính sách, đòi hỏi năng lực và tinh thần dân tộc của lãnh đạo, của quan chức để tranh thủ được nguồn lực của nước ngoài nhằm đẩy mạnh quá trình phát triển mà kinh tế không bị chi phối bởi các công ty đa quốc gia, không ảnh hưởng đến môi trường và các mặt khác.
Trong việc tiếp nhận FDI nhiều khi xảy ra xung đột giữa lợi ích quốc gia của nước cần FDI và chiến lược kinh doanh toàn cầu của xí nghiệp đa quốc gia, và lợi ích quốc gia tùy thuộc sự khôn ngoan và năng lực của lãnh đạo, của quan chức trong việc tăng khả năng thương lượng (bargaining of power) đối với nước ngoài.
Giáo sư Trần Văn Thọ, Đại học Waseda, Tokyo. |
PV:- Trên thực tế, đóng góp vào ngân sách nhà nước của các dự án FDI hạn chế do những ưu đãi về thuế, việc chuyển giao công nghệ gần như không được thực hiện (do những hạn chế về trình độ của lao động VN và thiếu ràng buộc pháp lý) hay nói cách khác, Việt Nam chỉ tham gia gia công sản phẩm. Điều này phần nào được thể hiện qua đóng góp của khu vực FDI trong GDP. Tuy giá trị xuất khẩu rất lớn nhưng giá trị gia tăng của khu vực này trong GDP chỉ khoảng 18% (theo số liệu của TCTK).
Theo Giáo sư, cách nhìn nhận và ứng xử với đầu tư nước ngoài của Việt Nam hiện nay đang như thế nào mà lại xảy ra tình trạng chỉ cho mà chưa đòi nhận như trên?
Giáo sư Trần Văn Thọ: - Rất khó tính một cách chính xác tỉ lệ đóng góp của FDI vào GDP. Chỉ xét sự đóng góp trực tiếp trong sản xuất thì chưa hiểu đúng bản chất và vai trò của FDI. Nếu đóng góp trực tiếp của FDI là khoảng 18% GDP thì không phải là nhỏ so với tỉ lệ đầu tư của FDI. Thử tính tỉ lệ của đầu tư từ FDI (vốn thực hiện) trong tổng đầu tư xã hội trong mấy năm gần đây ta thấy độ 20%. Nếu hai con số này là gần chính xác thì đúng là FDI đóng góp vào GDP ít hơn là tỉ lệ trong đầu tư, nhưng sự chênh lệch không lớn. Nhưng ở đây cần nhấn mạnh là hiệu quả gián tiếp của FDI mới quan trọng.
Thứ nhất là hiệu quả kích thích sản xuất những ngành công nghiệp phụ trợ và các dịch vụ sản xuất trong nước. Hiệu quả này nhỏ hay lớn là tùy theo chính sách phát triển của Việt Nam chứ không phải trách nhiệm của doanh nghiệp nước ngoài.
Thứ hai là hiệu quả chuyển giao công nghệ, lan tỏa tri thức kinh doanh đến người bản xứ, đến doanh nghiệp trong nước. Hiệu quả này lớn hay nhỏ tùy thuộc dự án FDI là 100% vốn nước ngoài hay là liên doanh, và các chức vụ quản lý trung gian cũng như kỹ sư ở nhà máy do người trong nước nắm giữ hay là tùy thuộc lâu dài vào người nước ngoài. Thông thường trong vài năm đầu của dự án FDI, tỉ lệ người nước ngoài có thể cao nhưng sau đó phải được chuyển dần sang người bản xứ.
PV:- Nhiều chuyên gia đã từng cảnh báo, việc ưu đãi tối đa cho các doanh nghiệp FDI ở tất cả các lĩnh vực sẽ ép chết những ngành sản xuất tương tự trong nước (đồng nghĩa ép chết doanh nghiệp trong nước). Tới thời điểm này, cảnh báo đó đúng ở mức độ nào? Xin Giáo sư phân tích kỹ một vài trường hợp cụ thể.
Giáo sư Trần Văn Thọ: - Đúng là cho đến nay chính sách thu hút FDI hầu như chỉ chạy theo số lượng, thiếu sự chọn lựa chiến lược làm cho xí nghiệp nước ngoài hiện diện trên nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, kể cả những ngành mà doanh nghiệp trong nước có thể đầu tư. Có nhiều ngành nhạy cảm về mặt xã hội, văn hóa hay an ninh, nếu doanh nghiệp trong nước chưa có khả năng đầu tư cũng phải để dành lại chứ không thể mở cửa cho nước ngoài.
Trong các dự án FDI, hình thái liên doanh có quá ít và sự liên kết hàng dọc giữa FDI với công ty trong nước quá yếu cho thấy năng lực của doanh nghiệp trong nước rất hạn chế. Nhìn chung có thể nói nội lực của Việt Nam quá yếu nên không tranh thủ ngoại lực một cách có hiệu quả.
Việc mở của cho FDI phải được tính toán kỹ và tranh thủ các điều kiện để bảo đảm tăng hiệu quả gián tiếp nói ở trên.
FDI không thúc đẩy kinh tế phát triển
PV:- Không thể phủ nhận, dòng vốn đầu tư trực tiếp rất quan trọng đối với những nước đang phát triển như Việt Nam. Liệu Giáo sư có thể dẫn ra vài ví dụ về việc ứng xử với đầu tư trực tiếp từ nước ngoài của các nước có điều kiện tương tự như Việt Nam? Họ đã giải bài toán trao đổi lợi ích như thế nào để người dân của họ được nhiều nhất từ việc đầu tư trực tiếp từ nước ngoài?
Giáo sư Trần Văn Thọ:- Những nước thành công trong việc thu hút FDI thường có các điểm chung như sau:
Thứ nhất, FDI phải được đặt trong một chiến lược phát triển kinh tế hoàn chỉnh trong đó quy định những ngành, những lĩnh vực cần thu hút FDI. Thông thường những ngành doanh nghiệp trong nước chưa có khả năng đầu tư nhưng xét thấy đó là những ngành có lợi thế so sánh trong tương lai và thị trường thế giới đang lớn mạnh, lãnh đạo phải tích cực tiếp thị để kêu gọi FDI vào những ngành đó và khi nước ngoài đến đầu tư thì theo dõi, tạo điều kiện để các dự án đó phát triển thành công. Trong dài hạn lợi thế so sánh cũng thay đổi và những ngành cần phát triển cũng thay đổi.
Do đó, để chuyển dịch cơ cấu công nghiệp lên cao, chiến lược thu hút FDI cũng phải thường xuyên thay đổi theo hướng khuyến khích doanh nghiệp nước ngoài ngày càng đầu tư vào các ngành có giá trị gia tăng cao hơn, có hàm lượng công nghệ và tri thức nhiều hơn. Mặt khác những ngành mà doanh nghiệp trong nước có thể hoặc có khả năng sẽ đầu tư thì phải hạn chế FDI hoặc cho phép FDI với điều kiện liên doanh với doanh nghiệp trong nước.
Thứ hai, nói chung dù trong lĩnh vực nào cũng nên khuyến khích, tạo điều kiện để các dự án FDI lập ra theo hình thức liên doanh với doanh nghiệp trong nước vì liên doanh mới tạo điều kiện cho công ty trong nước tiếp cận trực tiếp với công nghệ và tri thức kinh doanh tiên tiến, và sau này sẽ làm chủ được công nghệ và kinh doanh.
Hình thái liên doanh hay 100% vốn nước ngoài tùy thuộc nỗ lực, khả năng thương lượng của quan chức phụ trách thẩm tra các dự án FDI. Một vấn đề nữa là năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước. Nếu nguồn lực kinh doanh của doanh nghiệp trong nước không mạnh thì khả năng lập liên doanh với nước ngoài rất nhỏ.
Thứ ba, để công nghệ và tri thức kinh doanh của doanh nghiệp FDI lan tỏa từ dự án FDI sang các khu vực khác của nền kinh tế, cần có chính sách thúc đẩy sự liên kết hàng dọc giữa FDI với các công ty trong nước. Nghĩa là phải khuyến khích các dự án FDI tích cực dùng nguyên liệu và các sản phẩm phụ trợ sản xuất trong nước, qua đó doanh nghiệp có vốn nước ngoài sẽ chuyển giao công nghệ, truyền đạt tri thức, chỉ đạo quản lý để các công ty trong nước cung cấp hàng đủ chất lượng và với giá thành thích đáng.
Để đồng thời vừa thu hút FDI vừa tăng hiệu quả lan tỏa của FDI đến các khu vực khác của nền kinh tế, chính phủ các nước nhận FDI phải có chính sách phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, nâng đỡ các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc tiếp cận vốn và thông tin thị trường, trong việc giảm phí tổn về hành chánh, v.v...
Ba điểm nói trên cho thấy việc thu hút FDI là cả một nghệ thuật đòi hỏi người lập chính sách và quản lý FDI phải cố gắng không ngừng, phải quan tâm đến sự phát triển của doanh nghiệp trong nước thì FDI mới có hiệu quả tích cực đối với quá trình phát triển kinh tế. Có thể gọi đó là 3 tiêu chí để đánh giá thành quả thu hút FDI của một nước.
Từ 3 tiêu chí này, có thể nói Thái Lan là một trong những nước thành công trong việc thu hút FDI. Thái Lan lập ra Hội đồng Đầu tư có quyền hạn siêu bộ, đưa ra chính sách khuyến khích đầu tư đối với cả doanh nghiệp trong và ngoài nước trong một khung pháp lý thống nhất. Họ định ra những ngành cần khuyến khích đầu tư bằng các biện pháp ưu đãi, luôn tranh thủ nước ngoài, đặc biệt là Nhật Bản, để ngày càng chuyển dịch cơ cấu đầu tư lên cao, đồng thời nâng đỡ các doanh nghiệp trong nước.
Do đó, doanh nghiệp trong nước cũng tích cực đầu tư vào các ngành được khuyến khích. Chẳng hạn trong tổng tư bản pháp định của các dự án đầu tư được khuyến khích từ đầu năm 1986 đến cuối năm 1995, tư bản Thái Lan chiếm tới 72%, FDI chỉ có 28%. Trong các ngành sản xuất các loại máy móc như đồ điện gia dụng, xe hơi, v.v.., mặc dù FDI đóng vai trò lớn nhưng doanh nghiệp bản xứ cũng phát triển mạnh, tạo nên sự liên kết hàng dọc giữa hai khu vực này. Vào cuối năm 2007, trong tổng số 9.699 doanh nghiệp trong các ngày máy móc, tư bản bản xứ có 8721 doanh nghiệp, FDI chỉ có 978 doanh nghiệp.
Dĩ nhiên các công ty FDI có quy mô lớn hơn nhiều, nhưng số lượng khá lớn của doanh nghiệp bản xứ cho thấy hai loại hình doanh nghiệp cùng phát triển mạnh. Nhiều nghiên cứu cho thấy các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Thái Lan phát triển mạnh, cung cấp sản phẩm công nghiệp phụ trợ cho doanh nghiệp FDI.
PV:- Với việc thu hút FDI các nhà quản lý kỳ vọng làm tăng GDP. Tuy nhiên, các chuyên gia chứng minh chúng ta đang có sự ngộ nhận về GDP và thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam. Nguyên nhân của thực trạng cho mà chưa cần nhận này là do chính sách hay do con người, thưa Giáo sư? Tới thời điểm này, thay đổi có còn kịp không? Nếu được, chúng ta cần phải thay đổi như thế nào, thưa Giáo sư?
Giáo sư Trần Văn Thọ: - Tuy FDI có vị trí trong đầu tư và trong GDP như đã thấy nhưng về chất, có thể nói Việt Nam đã không thành công trong chiến lược dùng FDI để phát triển kinh tế. Ta thử đánh gía FDI tại Việt Nam nhìn từ 3 tiêu chí của chiến lược thu hút FDI hiệu quả đã bàn ở trên.
Thứ nhất, Việt Nam chưa bao giờ lập ra được một chiến lược phát triển công nghiệp năng động trong đó cả FDI và doanh nghiệp trong nước cùng liên kết làm tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu sản xuất và xuất khẩu lên cao.
Từ thập niên 1990, dòng chảy chủ đạo của FDI tại Á châu là các ngành công nghiệp máy móc với giá trị gia tăng cao và nhu cầu trên thị trường thế giới lớn mạnh, như đồ điện gia dụng, ô tô, máy tính cá nhân, v.v... Việt Nam đã nhiều lần có cơ hội đón đầu dòng chảy đó nhưng đã không chủ động về chính sách và sớm cải thiện môi trường đầu tư nên đã bỏ lỡ các cơ hội đó. Trên thực tế, có một số dự án FDI ở Việt Nam trong các lĩnh vực đó nhưng hoạt động không thành công, không trở thành những sản phẩm made-in Vietnam trên thị trường thế giới.
Do đó, FDI vào Việt Nam nhiều nhưng chủ yếu là những ngành dùng nhiều lao động giản đơn như may mặc, giày dép, và trở thành những ngành xuất khẩu chủ đạo. Nhưng đó là những lĩnh vực không cần nhiều vốn, không cần công nghệ cao nên đáng lẽ doanh nghiệp trong nước có thể đầu tư hay ít nhất là liên doanh với nước ngoài trong giai đoạn đầu và sau đó dần dần làm chủ hoàn toàn. Mặt khác, các ngành xuất khẩu ấy phải tùy thuộc vào nhập khẩu từ Trung Quốc các sản phẩm trung gian như vải, tơ sợi,... Suốt 20 năm nay công ty trong nước không có khả năng sản xuất thay thế hàng nhập này.
Thứ hai, phân tích hình thái FDI ta thấy hiện nay hầu hết là 100% vốn nước ngoài, liên doanh giữa nước ngoài với công ty trong nước ngày càng ít. Trong thời gian đầu sau khi Luật đầu tư nước ngoài ra đời, Việt Nam chỉ cho phép FDI theo hình thái liên doanh nên doanh nghiệp nước ngoài không có sự chọn lựa nào khác.
Kết cuộc các dự án trong giai đoạn đó phần lớn là liên doanh, phía Việt Nam thật ra chỉ đóng góp vốn bằng tiền cho thuê đất. Khi nhà đầu tư nước ngoài được phép tự lựa chọn hình thức đầu tư thì công ty nước ngoài chọn hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài. Trong tất cả những dự án FDI còn hoạt động tính đến cuối năm 2013 có tới 80% dự án là 100% vốn nước ngoài.
Những dự án FDI điển hình và nổi tiếng gần đây cũng theo hình thái 100% vốn nước ngoài. Chẳng hạn Sam Sung đầu tư với quy mô lớn tại Bắc Ninh và Thái Nguyên nhưng cả hai dự án đều là 100% vốn Hàn Quốc.
Nguyên nhân có hiện tượng trên là nhà nước thiếu nỗ lực, thiếu chiến lược hoặc không có khả năng thương lượng với nước ngoài, và một phần vì doanh nghiệp tư nhân còn yếu, hoặc không có khả năng góp vốn và các nguồn lực khác cũng yếu. Doanh nghiệp nhà nước thì tương đối có nhiều vốn hoặc yếu về các nguồn lực khác.
Thứ ba, cho đến nay hầu như sự liên kết giữa FDI và doanh nghiệp trong nước rất yếu. Muốn liên kết thì doanh nghiệp Việt Nam phải cung cấp các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ đủ chất lượng và với giá cả cạnh tranh được. Nhưng ở Việt Nam gần đây mới bắt đầu có chính sách phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ.
Gần đây doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhật đầu tư mạnh sang Việt Nam. Khuynh hướng này giúp phát triển công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam nhưng cũng cho thấy sự hiện diện của doanh nghiệp Việt Nam bị lu mờ. Các dự án đầu tư lớn của Sam Sung tại Bắc Ninh và Thái Nguyên cũng đang và sẽ lôi kéo hàng trăm công ty nhỏ và vừa của Hàn Quốc sang để sản xuất linh kiện và các sản phẩm hỗ trợ khác (hiện nay họ nhập khẩu từ các cơ sở của Sam Sung tại Trung Quốc).
Đáng bức xúc là không thấy Việt Nam có kế hoạch khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước tích cực tham gia vào thị trường này. Tôi có cảm tưởng là nhà nước nghĩ rằng kéo được Sam Sung đến đầu tư lớn là đủ để thỏa mãn với chính sách FDI rồi.
PV: - Xin cảm ơn Giáo sư đã trả lời phỏng vấn của báo Đất Việt!
Vũ Lan
No comments:
Post a Comment