Nhiều người không những không hiểu, mà còn hoàn toàn hiểu
sai, kể cả một số Nhà khoa học lớn, có Học hàm, Học vị cao và Chức vụ lớn. Tai
hại của chuyện này là người bình thường nghe các Cụ ấy nói, lại tưởng đó là
chân lý bất di bất dịch, và cái sai trái ấy được lan truyền rất rộng rãi khắp đất
nước.
1. Dương lịch là gì?
Dương lịch là việc phân chia sắp xếp thời gian thành
Ngày, Tháng, Năm, theo vòng quay của Trái đất quanh Mặt trời. “Dương lịch” tiếng
Anh là “Calendar”; tiếng Nga là “календарь”, tiếng Trung Quốc là “日曆” (“Nhật lịch”, nghĩa là
“Lịch Mặt trời”).
2. Âm lịch là gì?
Âm lịch là việc phân chia sắp xếp thời gian thành
Ngày, Tháng, Năm theo vòng quay của Mặt trăng quanh Trái đất. “Âm lịch” tiếng
Anh là “Lunar calendar”, nghĩa là “Lịch trăng”, tiếng Nga là “Лунный календарь”
(nghĩa là “Lịch theo trăng”), tiếng Trung Quốc là “陰曆”
(“Âm lịch”).
3. Tại sao người Việt Nam lại gọi “Âm lịch” và “Dương
lịch”? Hai từ này là tiếng Hán, chứ không phải là tiếng Việt, “Lịch” (曆, 历) trong tiếng Hán là “sắp
xếp giờ giấc”; “Dương” (陽,
阳), và “Âm” (陰, 阴) là hai Từ của Kinh Dịch
xưa của người Tàu. Kinh Dịch cho rằng mọi vật, mọi hiện tượng trong Vũ trũ này
được tạo thành bởi hai mặt đối lập, gọi là hai mặt “Dương” và “Âm”, ví dụ “Con
người và mọi sinh vật” đều gồm hai giới, “Dương” là đàn ông, là giống đực, “Âm”
là đàn bà, là giống cái. Thiên văn cổ với hiểu biết thô sơ, cho rằng Trái đất
là trung tâm Vũ trụ, còn có hai thiên thể lớn nhất Vũ trụ là Mặt trăng và Mặt
trời, và họ nghĩ rằng đây là hai vật thể đối lập, họ gọi Mặt trời là “Thái
Dương”, Mặt trăng là “Thái Âm”, với chữ “Thái” (太)
trong tiếng Tàu nghĩa là “rất lớn”, “vượt mức”
Từ xưa người Trung Hoa đã biết làm Lịch, theo vòng
quay của Mặt trăng quanh Trái đất. Về sau, tới khi người Trung Hoa tiếp thu Lịch
Mặt trời của Phương Tây, thì họ gọi Lịch Phương Tây là “Nhật lịch” (日曆, 日历) hoặc đôi khi gọi là
“Dương lịch” ((陽曆, 阳历), và gọi Lịch của họ là
“Âm lịch” (陰历, 阴历) và đôi khi gọi “Nguyệt
lịch” (月曆, 月历).
Người Việt Nam học theo tiếng nói của người Trung Hoa,
là Âm lịch và Dương lịch. Còn đôi khi gọi Dương lịch “Lịch Tây”, còn “Âm lịch”
là “Lịch Ta”. Thực ra nói “Lịch Ta” là không chính xác, vì không có Lịch của
người Việt Nam, mà chỉ có Lịch Tây của người Tây và Lịch Tàu của người Tàu.
4. Những nét cốt lõi của việc làm Lịch
Thứ nhất: Đo thời gian quay được 1 vòng của Trái đất
quanh Mặt trời và một vòng của Mặt trăng quanh Trái đất.
Thứ hai: Qui định số tháng của một năm, để tính ra số
ngày của 1 tháng
Thứ ba: Qui định thứ tự của năm, để xác định vị trí của
một năm cụ thể trong suốt hàng ngàn triệu năm.
5. Với Lịch Mặt trời:
Bình thường chúng ta tưởng Mặt trời quay quanh Quả đất,
nhưng thực ra Quả đất quay quanh Mặt trời. Hơn hai ngàn hai trăm năm trước, người
Tây đã đo được thời gian đó, là 365 ngày, và qui định đó là 1 năm.
Mỗi năm họ chia làm 12 tháng, mỗi tháng hơn 30 ngày rưỡi,
và để làm tròn số ngày của tháng, họ quy định chặt chẽ như sau: Tháng giêng 31
ngày, tháng hai 28 ngày, tháng ba 31 ngày, tháng tư 30 ngày, tháng năm 31 ngày,
tháng sáu 30 ngày, tháng bảy 31 ngày, tháng tám 31 ngày, tháng chín 30 ngày,
tháng mười 31 ngày, tháng mười một 30 ngày, tháng mười hai 31 ngày.
Và qui định mỗi tuần có 7 ngày, mỗi ngày có 24 giờ.
Vài trăm năm sau khi Giê – su chết, Giáo hội Phương
Tây thống nhất chọn 1 thời điểm làm ngày đầu tiên của Dương lịch. Họ đã chọn sau
ngày sinh của Giê – su 1 tuần, gọi là Ngày Đầu tiên của Dương lịch, tức là ngày
mồng một tháng giêng năm thứ nhất (số 1).
Sinh thời của Giê – su chưa có Lịch Tây này, nên Giáo
hội không biết gọi ngày sinh của Giê – su là ngày bao nhiêu tháng năm nào. Sau
khi có qui định kể trên thì mới có ngày sinh của Giê – su là 25/12 năm -1. Cũng
nhờ qui định này mà người ta mới có thứ tự của năm, và có thể xác định vị trí của
một năm cụ thể trong suốt hàng ngàn triệu năm.
Khoảng thế kỷ thứ 6 người Phương Tây đo đạc lại, kết
quả là thời gian quay quanh Mặt trời của Quả đất chính xác hơn số cũ trước Công
nguyên (365 ngày), là 365 ngày 6 giờ. Như vậy nếu lấy một năm chỉ 365 ngày như
Lịch cũ, thì mỗi năm sẽ thiếu đi 6 giờ, sau 4 năm sẽ thiếu đi 24 giờ, bằng 1
ngày. Việc này dẫn đến 1 hệ quả nghiêm trọng, là sau 120 năm Lịch sẽ bị sai lệch
mất 1 tháng, và sau (120 năm x 6) = 720 năm Lịch sẽ lệch đi 6 tháng, nghĩa là đảo
lộn 4 mùa, mùa đông vào tháng 6 và mùa hè vào tháng 12. Giáo hội đã quyết định
sửa Lịch như sau: Cứ 4 năm thì thêm vào 1 ngày, là ngày 29/2. Người Việt Nam
nói theo tiếng Tàu, gọi ngày “thừa” này là ngày “nhuận 閏”
và tháng 2 Dương lịch là tháng “nhuận”. Tiếng Tàu, chữ “Nhuận” “閏” nghĩa là “xen
vào giữa, thừa ra”.
Khoảng thế kỉ thứ 9, người ta đo lại thời gian quay 1
vòng quanh Mặt trời của Trái đất không phải là 365 ngày 6 giờ, mà chính xác hơn
là 365 ngày 5 giờ 48 phút 16 giây. So với số đo cũ, 365 ngày 6 giờ, thì thừa
ra:
6 giờ - (5 giờ
48 phút 16 giây) = 11 phút 44 giây.
Người ta đã tính cách bù trừ như sau: cứ 400 năm, nếu
theo lịch cũ thì sẽ thừa ra:
(11 phút 44 giây) x 400 năm = 78 giờ = 3 ngày + 6 giờ.
Giáo hội Phương Tây quyết định sửa Lịch như sau:
- Cứ 400 năm (4 Thể kỉ) thì bỏ bớt đi 3 ngày nhuận,
29/2 của 3 Thế kỉ. Ba ngày bị bỏ này được qui định là ngày nhuận đầu tiên, của
năm đầu tiên, của những Thế kỉ có số thứ tự không chia hết cho 4. Qui định này
giúp bỏ bớt được 3 ngày x 24 giờ = 72 giờ. Vẫn còn dư 6 giờ, vẫn còn phải tìm
cách bỏ đi 6 giờ này.
- 400 năm còn dư 6 giờ, vậy thì phải mất bao nhiêu năm
để số dư là 24 giờ của 1 ngày:
Số năm tương ứng với số dư còn lại:
24 giờ/ 6 giờ x 400 năm = 1600 năm.
Từ đây Giáo hội La mã còn phải thêm 1 qui định, cứ 16
thế kỷ, 1600 năm, thì phải bỏ thêm 1 ngày nhuận. Cụ thể là năm đầu tiên của Thế
kỉ thứ 17, là năm 1600, đáng lẽ phải bỏ ngày nhuận 29/2 (theo qui định Lịch
cũ), nhưng không bị bỏ.
Câu chuyện Lịch cũ Lịch mới này đã dẫn đến nhiều chuyện
“tréo ngoe” trong Lịch sử, ví dụ: “Cách mạng tháng 10 Nga” ngày 25/10/1917 lại
diễn ra vào ngày 7/11/1917.
Khoảng Thế kỉ thứ 8 đã phát sinh mâu thuẫn rất lớn
trong nội bộ Giaó hôi, Giáo hội Giê – su bị chia làm hai, Giáo hội Phương Tây với
trung tâm là Thành phố La mã (Rôm, nước Ý), và Giáo hôi Phương Đông, với trung
tâm là Thành phố Constantinop. Nguyên nhân của sự phân chia là, phe Phương Đông
phê phán phe Phương Tây về những “cải cách”, mà theo họ đã hủy hoại Giáo lý cơ
bản của Giê – su, còn phe Phương Đông kiên trì giữ nguyên Giáo lý cơ bản của
Giê – su, tự cho mình là “Chính thống giáo”.
Một trong những phê phán của Phương Đông, là Phương
Tây đã sửa đổi Lịch cũ thành Lịch mới. Còn phe Chính thống Phương Đông kiên trì
sử dụng Lịch cũ. Trung tâm của phe Phương Đông khoảng thế kỉ thứ 13 đã chuyển
sang Thành phố Moscow của Đế quốc Nga. Nhà nước Nga cũng chỉ công nhận Lịch cũ.
Đến Thế kỉ 20 Lịch mới đã bỏ đi 16 ngày nhuận (của năm
100, 200, 300, , 500, 600, 700, , 900,
1000, 1100, , 1300, 1400, 1500, , 1600,
, 1700, 1800, 1900), dẫn đến kết quả là
Lịch mới “chạy trước” Lịch cũ 16 ngày, ngày 7/11/1917 chạy trước ngày 25/10/1917
đúng 16 ngày.
6. Với Lịch Mặt trăng:
Hơn 2000 năm trước người Trung Hoa đã đo được Tuần
Trăng (khoảng thời gian giữa hai kì trăng tròn), là 29 ngày rưỡi. Họ gọi thời
gian này là 1 tháng. Cho nên trong tiếng Tàu chữ “Tháng” và chữ “Trăng” là cùng
một chữ “Nguyệt” (月), chứ không
phải như trong tiếng Việt, “Tháng” và “Trăng” là hai Từ khác nhau, thể hiện hai
khái niệm khác nhau.
Để làm tròn số ngày trong 1 tháng, Lịch Tàu qui định
Tháng Lớn (Đại Nguyệt, 大月)
có 30 ngày, Tháng Nhỏ (Tiểu Nguyệt, 小月)
có 29 ngày, người Việt Nam dùng Lịch Tàu gọi là “Tháng đủ” và “Tháng thiếu”. Họ
quan sát thấy khí hậu thay đổi tuần hoàn với chu kì khoảng 12 tháng, từ đó Lịch
Tàu qui định 1 năm có 12 tháng.
Lịch này giúp con người xác định được chính xác ngày
nào Trăng tròn, và ngày nào Thủy triều trên biển dâng cao nhất, ngoài ra không
liên quan gì đến thời tiết, khí hậu, mùa màng, nông nghiệp …
Có thể gọi Lịch này là “Âm Lịch Nguyên Thủy”.
Với Lịch này, mỗi năm chỉ có 12 tháng x 29,5
ngày/tháng = 354 ngày. Nếu so với chu kỳ biến đổi khí hậu trên mặt đất, thì mỗi
năm bị thiếu mất 365 ngày - 354 ngày = 11 ngày, sau ba năm sẽ thiếu mất 1 tháng.
Và như vậy sau (3 năm) x 6 = 18 năm thì Lịch sẽ sai lệch với thiên nhiên 6
tháng, nghĩa là 4 mùa sẽ đảo lộn, tháng 6 là mùa đông, tháng 12 là mùa hè.
Hiện nay trên Thế Giới vẫn tồn tại “Âm Lịch Hồi giáo”,
giống hệt “Âm Lịch Nguyên Thủy” của người Tàu.
Sau nhiều năm quan sát, người Tàu thấy 1 năm nếu chỉ
12 tháng thì không phù hợp với sự biến đổi thiên nhiên, và họ qui định gần
đúng, cứ ba năm thì phải thêm 1 tháng nhuận.
Khoảng hơn 1000 năm trước các Nhà khoa học Thiên văn của
các Đài Thiên văn của Hoàng đế Trung Hoa đã quan sát, đo đạc, và họ cũng đã có
kết quả giống như Lịch Phương Tây, là một năm có 365 ngày 6 giờ, và thời gian
quay vòng trung bình của Mặt trăng quanh Quả đất là 29,534 ngày
Nhưng người Trung Hoa không hủy bỏ Lịch Tàu, mà họ cải
tiến nâng cao “Lịch Tàu Nguyên thủy” thành “Âm Lịch”, và gọi chính xác Lịch này
là “Âm – Dương Lịch” (陰
陽 曆, 阴 阳 历). Ngày nay Âm lịch mà người
Việt chúng ta đang sử dụng, chính là “Âm – Dương Lịch” của người Trung Hoa.
7. Giống nhau giữa “Dương lịch” và “Âm – Dương Lịch”
Trung Hoa:
- Thời gian của 1 năm là 365 ngày 5 giờ 48 phút 16
giây
- Mỗi năm có 12 tháng.
- Dương lịch chia mỗi ngày thành 24 giờ, với 12 giờ buổi
sáng (AM) và 12 giờ buổi chiều (PM), tên gọi của mỗi giờ theo thứ tự, từ 0 giờ
đến 23 giờ. Âm Dương Lịch chia mỗi ngày thành 12 giờ với những tên gọi riêng
cho từng giờ, liên quan chặt chẽ với 24 giờ Dương lịch: Giờ Tý từ 0 giờ đến hết
1 giờ, giờ Sửu từ 2 giờ đến hết 3 giờ, giờ Dần từ 4 giờ đến hết 5 giờ, giờ Mão
từ 6 giờ đến hết 7 giờ, giờ Thìn từ 8 giờ đến hết 9 giờ, giờ Tỵ từ 10 giờ đến hết
11 giờ, giờ Ngọ từ 12 giờ đến hết 13 giờ, giờ Mùi từ 14 giờ đến hết 15 giờ, giờ
Thân từ 16 giờ đến hết 17 giờ, giờ Dậu từ 18 giờ đến hết 19giờ, giờ Tuất từ 20
giờ đến hết 21 giờ, giờ Hợi từ 22 giờ đến hết 23 giờ.
8. Khác nhau giữa “Dương lịch” và “Âm – Dương Lịch”
Trung Hoa:
- Việc làm Lịch:
Làm
Lịch Tây vô cùng đơn giản, chỉ cần tuân thủ 1 số qui định như đã nói ở phần
trên (mục 5). Nên bất
cứ ai cũng có thể “nhắm mắt” viết ra đầy đủ chính xác Lịch của một năm nào đó,
của quá khứ và cả của tương lai. Còn làm Âm – Dương lịch, công việc không đơn
giản một tí nào, với hàng ngàn bài tính phức tạp, rắc rối, liên quan đến những
thông số Thiên văn Địa lý
của Mặt trăng, Trái đất, Mặt trời,
và rất nhiều mối liên quan, rất nhiều qui ước vô cùng phức tạp.
Lưu ý rằng, làm Âm – Dương lịch là phải sử dụng “bài
toán 3 vật thể trong không gian”, bài toán này đến nay Khoa học của nhân loại vẫn
chưa giải được trọn vẹn, mặc dù đã được những nhà Toán học giỏi nhất Thế giới dày
công nghiên cứu hàng ngàn năm nay.
Hàng năm, để lập nên Âm – Dương lịch của năm tiếp
theo, phảimở Hội nghị,
tập hợp những nhà làm Lịch chuyên nghiệp, kỳ cựu, thảo luận, tính toán.
Lịch này cũng có lắm chuyện “tréo ngoe”. Ví dụ Lịch
năm Mậu Thân (1968), Miền Bắc theo múi giờ thứ 7, còn Miền Nam theo múi giờ thứ
6, theo đúng qui tắc tính toàn làm
Âm – Dương lịch, thì ngày Âm lịch của 2 miền chênh lệch nhau 1 ngày, dẫn đến kết
quả: ngày 30 Tết của Miền Bắc lại là ngày 01 Tết của Miền Nam!
- Ngày Tiết: Dương lịch có 8 “ngày Tiết”, 8 “ngày Tiết”
này giúp xác định 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông trên Trái đất:
Trái đất tự quay xung quanh theo trục Bắc – Nam, 1
vòng hết 24 giờ, tạo ra ngày và đêm.
Đồng thời Trái đất quay vòng quanh Mặt trời trong 365
ngày và gần 6 giờ, tạo thành 1 năm. Mặt phẳng mà Trái đất quay quanh Mặt trời gọi
là Mặt phẳng Hoàng đạo. Trong suốt quá trình quay quanh Mặt trời, trục tự quay
Bắc – Nam của Trái đất luôn giữ một Phương không đổi, Phương này lệch với mặt
phẳng Hoàng đạo 23 độ rưỡi.
Nhờ có độ lệch này mà trên mặt của Quả đất có 4 mùa
Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Nếu không có độ lệch này thì trên Mặt đất không có 4
mùa, quanh năm khí hậu như nhau.
Dương lịch gọi ngày bắt đầu Mùa Xuân là ngày Lập Xuân,
ngày chính giữa Mùa Xuân là ngày Xuân Phân; ngày bắt đầu Mùa Hạ là ngày Lập Hạ,
ngày chính giữa Mùa Hạ là ngày Hạ Chí; ngày bắt đầu Mùa Thu là ngày Lập Thu,
ngày chính giữa Mùa Thu là ngày Thu Phân; ngày bắt đầu Mùa Đông là ngày Lập
Đông, ngày chính giữa Mùa Đông là ngày Đông Chí.
Những Ngày Tiết này hoàn toàn xác định bởi vị trí của
Quả đất trong vòng quay quanh Mặt trời. Mỗi mùa có hơn 91 ngày, và mỗi Ngày Tiết
nói trên cách nhau hơn 45 ngày. Tám Ngày Tiết này gần như cố định trong Dương lịch:
Lập xuân ngày 6/2, Xuân Phân ngày 21/3, Lập hạ ngày 6/5, Hạ chí ngày 21/6, Lập
thu ngày 6/8, Thu Phân ngày 21/9, Lập Đông ngày 6/11, Đông chí ngày 21/12. Do
có những năm nhuận nên tám Ngày Tiết này có thể lệch đi, chậm mất 1,2 ngày.
Âm – Dương lịch cũng có tám Ngày Tiết như vậy. Nhưng
trong Âm – Dương lịch, ngày tháng không được sắp xếp thứ tự chặt chẽ như trong
Dương lịch, mà biến hóa vô cùng rắc rối, cho nên các nhà làm Lich phải hết sức
khốn khổ mới tính ra được ngày Âm lịch của tám ngày Tiết. Tám Ngày Tiết đó
không cố định như trong Dương lịch, mà mỗi năm một khác. Cho nên muốn biết Ngày
Tiết là ngày nào trong năm Âm lịch thì chỉ có một cách duy nhất là đọc Lịch của
năm đó.
Về sau người Trung Hoa có một cách xác định Ngày Tiết dễ
dàng hơn, khỏi phải tính toán phức tạp, là đem so sánh Âm – Dương lịch mà họ vất
vả tạo ra hàng năm, với Dương lịch của năm tương ứng, rồi gán Ngày Tiết của
Dương lịch vào Âm – Dương lịch của họ.
Đại đa số người Việt Nam không biết về câu chuyện Ngày
Tiết này, cứ tưởng Ngày Tiết là của Âm lịch Trung Hoa. Ở Việt Nam ngay cả nhiều
Nhà làm Lịch cũng không biết điều này, nên khi in Lịch, cứ gán Ngày Tiết cho Âm lịch.
Âm – Dương lịch của Trung Hoa còn thêm 16 ngày Tiết,
chen vào giữa tám Ngày Tiết kia, họ chia khoảng cách giữa hai Ngày Tiết của
Dương lịch làm ba phần đều nhau, rồi chèn thêm hai Ngày Tiết của họ. Thực ra 16
Ngày Tiết chèn vào này cũng giống 8 Ngày Tiết trên kia, họ không cần tính toán
mệt nhọc, mà chỉ cần so sánh với Lịch Tây để chọn ngày tương ứng.
-
Việc đặt tên năm:
Dương lịch không đặt tên riêng cho từng năm, mà gọi
năm theo thứ tự, từ năm số 1 trở đi, cách gọi tên này thật đơn giản, nhưng lại
vô cùng thuận lợi và chính xác, giúp người ta dễ dàng xác định được các sự kiện
xảy ra trong thời kì lịch sử nào của nhân loại, của dân tộc, của dòng họ, của
cá nhân.
Còn Âm – Dương lịch đặt tên theo “Thiên Can Địa Chi”: có
10 “Can”: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý, và 12 “Chi”: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ,
Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Tên của 1 năm được ghép bởi 1 từ thuộc “Can” và
1 từ thuộc “Chi”, ví dụ: năm Quang Trung lên ngôi Hoàng Đế, là năm Mậu Thân.
Cách đặt tên này không giúp người ta biết gì, ví dụ: không biết việc đấy cách
đây bao nhiêu năm, còn Lịch Tây ghi là năm 1788, rất dễ hiểu.
Cách đặt tên này còn qui định: 6 “Can” với số thứ tự lẻ
chỉ được ghép với 6 “Chi” với thứ tự lẻ, 6 “Can” với số thứ tự chẵn chỉ được
ghép với 6 “Chi” vói thứ tự chẵn. Kết quả là Âm – Dương lịch chỉ vẻn vẹn có 60
tên năm. Cứ sau 60 năm, tên năm lại bị lặp lại. Hậu qủa là, trong vòng 300 năm có 5 năm khác nhau nhưng lại
mang cùng 1 cái tên, trong vòng 2400 năm có 40 năm khác nhau nhưng lại mang
cùng 1 cái tên, biết đằng nào mà lần !
Có tên Can Chi cùa
năm rồi, để có thể xác định vị trí của năm đó trong chiều dài của Lịch sử, thì
Âm lịch phải kèm theo 1 Thông tin nữa, lả năm ấy vào Đời Vua nào của Trung Hoa,
hoặc Đời Vua nào của Việt Nam, ví dụ: năm Quang Trung lên ngôi Hoàng Đế, là năm
Mậu Thân, phải thêm Thông tin : Đời Nhà Thanh Trung Hoa, Vua Thanh Cao Tông,
Niên hiệu Kiến Long, năm thứ 43. Khi có đủ 2 Thông tin nàyrồi, còn phài tra Bảng
đối chiếu giữa các Đời Vua với năm Dương lịch, kết quả đối chiếu sẽ là, Quang
Trung lên ngôi Hoàng Đế năm 1788.
Chuyện xác định năm
Âm lịch thật sự rắc rối, nhất là không phải ai cũng có Bảng tra đối chiếu giữa
các Đời Vua với năm Dương lịch.
Tên năm Can Chi còn
gây ra một hệ lụy rất đáng buồn, 12 Can ứng với 12 con vật: Tý – Chuột, Sửu –
Trâu, Dần –Hổ, Mão – Mèo, Thìn –Rồng, Tỵ - Rắn, Ngọ - Ngựa, Mùi – Dê, Thân – Khỉ,
Dậu –Gà, Tuất – Chó, Hợi – Lợn.
Mê tín dị đoan cùng với
thói quen và niềm tin hoang sơ vào Âm lịch, đã khiến đa số người Việt Nam đinh
ninh rằng ai sinh ra vào năm con vật nào , thì thân phận gắn liền với thân phận
vật con đó, nhiều người buồn vì số phận mình là số phận của loài Chó Lợn Trâu
Ngựa Chuột Gà, nhiều người hí hửng vì số phận mình là số phận của loài Rồng
loài Hổ !
9. Những nhận thức
sai về Âm lịch:
- Nhiều người nghĩ rằng
Âm lịch là của người Việt Nam, là hoàn toàn sai.
Từ khi người Trung
Hoa xâm lược và thống trị nước ta, họ ra sức đồng hóa nước ta về mọi mặt, văn
hóa, ngôn ngữ, vân vân, Riêng về ngôn ngữ, trong tiếng Việt mà chúng ta đang
nói hàng ngày hiện nay, có hơn 70% là tiếng Tàu, gần 30% là tiếng thuần Việt.
Từ vốn tiếng thuần Việt
mà chúng ta giữ lại được đến ngày nay, có thể thấy rằng, trước khi người Trung
Hoa xâm lược và thống trị nước ta, dân ta đã có những khái niệm rất rõ ràng
chính xác về giờ giấc, ngày đêm, năm, tháng, mùa, là những khái niệm cơ bàn để
có thể làm nên Lịch, nhưng lúc đó dân ta chưa biết làm Lịch.
Tiếng Thuần Việt |
Tiếng Tàu |
Chữ
Tàu Phồn thể |
Chữ
Tàu Giản thể |
Giờ giấc |
Thời gian |
時間 |
时间 |
Ngày |
Nhật |
日 |
日 |
Tháng |
Nguyệt |
月 |
月 |
Năm |
Niên |
年 |
年 |
Mùa |
Thiên |
天 |
天 |
Buổi sáng sớm |
Tảo thượng |
早上 |
早上 |
Buổi sáng |
Thượng ngọ |
上午 |
上午 |
Buổi trưa |
Trung Ngọ |
中午 |
中午 |
Buổi chiều |
Hạ ngọ |
下午 |
下午 |
Buổi tối |
Vãn thượng |
晩上 |
晩上 |
Buổi đêm |
Dạ |
夜 |
夜 |
Mùa hè |
Hạ thiên |
夏天 |
夏天 |
Mùa lạnh, mùa rét |
Đông thiên |
冬天 |
冬天 |
Mùa mát mẻ |
Xuân thiên, thu thiên |
春天, 秋天 |
春天, 秋天 |
Tháng Giêng |
Nhất nguyệt |
一月 |
一月 |
Tháng chạp |
Thập nhị nguyệt |
十月 |
十月 |
Tết |
Xuân tiết |
春節 |
春节 |
Không có |
Lịch |
曆 |
历 |
Ngày Rằm |
Mãn Nguyệt |
滿月 |
满月 |
Nhiều người ngày nay
vẫn lầm tưởng như người cổ đại, rằng có hai thiên thể lớn nhất là Mặt trời và Mặt
trăng. Nhưng thực ra Mặt trời lớn gấp khoảng 10 triệu lần Mặt trăng, Mặt trời
là nguồn phát ra năng lượng và ánh sáng, còn Mặt trăng thì bé tẹo, không phát
ra ánh sáng, mà chỉ phản chiếu ánh sáng của Mặt trời. Mọi tác động lên thiên
nhiên và sinh quyển (kể cả Nông nghiệp) trên Mặt đất đều xuất phát từ Mặt trời.
Mặt trăng chỉ tác động lên Mặt đất hai việc, một là trăng sáng ban đêm, sáng nhất
là đêm Rằm, hai là thủy triều trên biển lên xuống theo tuần trăng, triều lên cực
đại vào ngày Rằm. Ngoài ra các loại sinh vật sống trong nước biển, về mặt sinh
học cũng chịu tác động của thủy triều, tức là tác động của Mặt trăng, ví dụ:
Tôm cua lột vỏ theo tuần trăng.
Âm lịch phân chia thời
gian theo tuần trăng, ngày tháng của Âm lịch hoàn toàn phụ thuộc vào vị trí
tương đối giữa Mặt trăng và Quả đất, trong khi Mặt trăng không có tác dụng gì đối
với Nông nghiệp. Nhưng nhiều người Việt Nam vẫn gọi Âm lịch là Nông Lịch, kể cả
người Trung Hoa ngày nay (農曆, 农 历), và lầm tưởng tin
rằng làm nghề Nông phải tuân thủ Âm lịch.
Cái lầm tưởng này có
lẽ xuất phát từ chỗ, Âm lich Trung Hoa có chèn thêm 16 Ngày Tiết, tên của mỗi
Ngày Tiết nghe ra có vẻ liên quan đến Nông nghiệp và trồng trọt, đó là:
1. Vũ thủy: Vũ Thủy là thời tiết mưa ẩm ướt, mưa phùn, có gió
thổi nhẹ.
2. Kinh trập: sâu nở
3. Thanh minh: bầu trời quang đãng
4. Cốc vũ: mưa lớn
5. Tiểu mãn: lũ nhỏ
6. Mang chủng:
thu hoạch ngũ cốc
7. Tiểu thử: nắng nhẹ
8. Đại thử: nắng nhiều
9. Xử thử: hết nóng
10. Bạch lộ: bắt đầu sương mù
11. Hàn lộ: sương mù lạnh giá
12. Sương giáng: sương mù dày đặc
13. Tiểu tuyết: Tuyết nhỏ
14. Đại tuyết: tuyết lớn
15. Tiểu hàn: hơi lạnh
16. Đại hàn: rấtt lạnh
Hơn nữa tên gọi và ý nghĩa của các Ngày Tiết này chỉ phù hợp với 1 địa
phương hẹp chứ không phải phù hợp với toàn cầu, ví dụ: Địa phương ở Bắc bán cầu
hoàn toàn ngược với các địa phương ở Nam bán cầu, hoặc ở Việt Nam hoàn toàn
không có tuyết, ở Nam bộ Việt Nam không có Đại hàn, Tiểu hàn như ở Bắc bộ.
- Bói toán theo ngày tháng năm Âm lịch là hoàn toàn dị đoan:
Các “Thầy” làm nghề bói toán, như “Thầy bói”, “Thầy số”, “Thầy cúng”, “Thầy
chùa”, đều lấy ngày tháng năm Âm lịch làm cơ sở cho việc bói toán, nhưng như đã
phân tích ở trên (mục 8), Âm lịch cứ 60 năm lại lặp lại, nghĩa là theo Âm lịch
chu kỳ hoạt động của thiên nhiên là 60 năm, điều này không hề có, mà chỉ là sự
quy định tùy tiện của Âm lịch. Kết quả là bói toán theo ngày tháng năm Âm lịch
là không có căn cứ khoa học, không có căn cứ thực tiễn.
10. Một vài kiến nghị:
Từ những thôn tin đã trình bày trong 9 mục nói trên, chúng tôi mạo muội đề
xuất mấy kiến nghị.
- Hoàn toàn bỏ Âm lịch, chỉ dùng Dương lịch:
Ở Trung Hoa, năm 1911 Lãnh tụ cách mạng Tôn Trung Sơn, lãnh đạo thành
công Cách mạng Tân Hợi, lật đổ chế độ phong kiến hàng ngàn năm, lên ngôi Tổng
thống Trung Hoa Dân Quốc, đã ra lệnh chính quyền nhà nước chỉ dùng Dương lịch,
và khuyến cáo nhân dân không nên dùng Âm lịch.
Ở Việt Nam tháng 3/1945 Thủ tướng Chính phủ Đế quốc Việt Nam Trần Trọng
Kim đã quyết định tương tự như Tổng thống Trung Hoa năm 1911.
Cũng ở Việt Nam, tháng 9/1945 Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã quyết
định không dùng Âm lịch trong công vụ, nhưng không khuyến cáo nhân dân không
nên dùng Âm lịch.
Bỏ Âm lịch, chỉ dùng Dương lịch, thì trong Dương lịch hàng tháng ghi thêm
Ngày Trăng Tròn. Việc thêm thông tin này không có gì khó, không phức tạp như
làm Âm lịch, bởi vì Dương lịch đã biết chính xác thời gian Mặt trăng quay quanh
Quả đất là khoảng 29 ngày rưỡi. Khi biết ngày trăng tròn trong tháng này, thì
có thể biết chắc chắn ngày trăng tròn của tháng tiếp theo.
Người Việt Nam có tục làm Giỗ Tổ Tiên, với ý nghĩ rằng ngày Giỗ là ngày hàng
năm tưởng nhớ người đã khuất, vào đúng ngày ra đi. Phong tục Việt Nam lại lấy
ngày Âm lịch là ngày Giỗ, nhưng như đã phân tích ở trên, một năm Âm lịch không
đúng với một năm của trời đất, ngày Giỗ của năm nay theo Âm lịch, và ngày Giỗ
năm sau theo Âm lịch sai lệch nhau hơn 10 ngày của tự nhiên, nghĩa là người Việt
mỗi năm làm Giỗ vào những ngày khác nhau, hàng năm phải đọc Âm lịch để biết
ngày Giỗ là ngày nào.
Cho nên, nếu người Việt tự quy định lại, làm Giỗ Tổ Tiên vào ngày tháng
Dương lịch của ngày từ trần, thì Lễ Giỗ mới đúng là Lễ kỷ niệm ngày Cha ông đi
xa.
Người Việt Nam rất coi trọng ngày Tết, coi ngày Tết là ngày Lễ lớn nhất
và nhiều ý nghĩa nhất trong mỗi năm. Thực chất ngày Tết chỉ là ngày mở đầu của
một năm, ngày mồng một tháng giêng. Từ khi người Việt Nam dùng Lịch của người Tàu,
thì bắt đầu ăn Tết vào ngày mồng một tháng giêng của Lịch Tàu, ngày đó người
Tàu gọi là Nguyên Đán (元旦, nghĩa là ngày thứ nhất), hoặc là Xuân Tiết (春節, 春节, nghĩa là ngày lễ mùa Xuân), và người Việt
Nam cũng gọi ngày Tết là Tết Nguyên Đán. Như đã phân tích ở trên ngày tháng theo Âm lịch không gắn liền với trời đất,
thiên nhiên, khí hậu, nên hàng ngàn năm nay dân tộc ta ăn Tết vào ngày vô định
của thiên nhiên, trời đất.
Bỏ Âm lịch, chỉ dùng Dương lịch, thì đương nhiên ngày Tết sẽ là ngày mồng
một tháng giêng Dương lịch, Ngày Tết cổ truyền vô cùng ý nghĩa của chúng ta vẫn
giữ được nguyên vẹn là ngày Tết đầu năm, là Nguyên Đán, không mất mát thay đổi
gì cả.
Nhân đây xin nói thêm một chút, năm 2005 GS TS Võ Tòng Xuân, một Nhà Khoa
học lớn, một Nhà yêu nước chân chính, một người đã có nhiều cống hiến lớn cho NỀN
Khoa học của Việt Nam và của nhân loại, đã đề xuất “ bỏ ăn Tết Âm lịch, chỉ ăn
Tết Dương lịch”. Ý tưởng này đã làm xôn xao ầm ĩ công luận, với 1 phe ủng hộ và
1 phe phản đối. Cho đến gần đây có người còn kiến nghị Nhà nước tước bỏ Học hàm
Học vị của GS Xuân, có người còn kiến nghị thu hồi lương hưu của Cụ.
Thực ra, nếu Cụ Xuân chỉ đề nghị “bỏ dùng Âm lịch, chỉ dùng Dương lịch”,
thì chắc mọi việc sẽ ổn thỏa, KHÔNG AI CÓ LÝ SỰ GÌ ĐỂ PHẢN ỨNG NGƯỢC !
- Cải tiến một chút cho Dương lịch hiện nay:
Dương lịch hiện nay, như đã phân tích ở trên, là hết sức khoa học, hết sức
hoàn chỉnh, hết sức thuận lợi cho người dùng.
Nhưng trong Dương lịch hiện nay có 1 điểm chưa thuận tiện. Đó là, mỗi năm
có 365 ngày hoặc 366 ngày, trong khi mỗi tuần lễ có 7 ngày, mỗi năm có 365/7
ngày thành 52 tuần lễ, dư 1 ngày l, dẫn đến tình trạng, “Thứ trong tuần” của “Ngày,
Tháng” năm nay sẽ lệch với “Thứ trong tuần” của cùng “Ngày, Tháng” của năm sau,
ví dụ: ngày mồng một tháng Giêng năm 2023 là ngày Chủ nhật, thì ngày mồng một
tháng Giêng năm 2024 sẽ là ngày Thứ hai. Điểm này làm mất tính đồng nhất của Dương
lịch, Lịch năm này vẫn khác Lịch năm nọ, gây bất tiên cho người dùng.
Có một cách khắc phục, hết sức đơn giản, là quy định Ngày cuối cùng của
năm, Ngày 31/12, sẽ được đặt tên bằng một tên riêng nào đó, không nằm trong bảy
“Thứ” của tuần lễ, ví dụ đặt tên là “Thứ Cuối năm”, thì tuần lễ cuối cùng của
năm sẽ có 8 ngày, và Ngày mồng một tháng một của năm sau sẽ cùng Thứ với Ngày mồng
một tháng một của năm trước. Kết quả là, tất cả các Ngày Tháng của năm sau sẽ có
cùng Thứ với tất cả Ngày Tháng của năm trước, và Dương Lịch sẽ là 1 Bản đồng nhất
cho muôn đời ! Quy định tuần lễ cuối cùng có 8 ngày, 8 “Thứ”, không có gì là
“khác thường”, vì giống như trong Dương lịch hiện nay, quy định năm nhuận có 29
ngày.
Với cải tiến này, phải có thêm quy định: “Ngày nhuận” 29/2 sẽ có tên “Thứ”
riêng, ví dụ “Thứ nhuận” , chứ không phải là “Thứ” tiếp theo của Ngày 28/2, và
như vậy, Tuần lễ có Ngày nhuận sẽ có 8 ngày.
HY VỌNG 2 KIẾN NGHỊ TRÊN SẼ ĐƯỢC MỌI NGƯỜI ỦNG HỘ !
No comments:
Post a Comment