Thursday, January 22, 2015

NĂM 2015 THÁNG 01 NGÀY 23

ĐẬP THỦY ĐIỆN DON SHAHONG
CÓ GÂY HẠI CHO LƯU VỰC SÔNG CỬU LONG?

TS Nguyễn Bách Phúc 
Chủ tịch Hội Tư vấn Khoa học Công nghệ và Quản lý HASCON 
Viện trưởng Viện Điện – Điện tử - Tin học EEI

Hiện nay ở VN có nhiều “Nhà khoa học” ra sức tuyên truyền rằng người Lào xây dựng đập thủy điện trên sông Mekong là gây tai hại lớn cho môi trường sống của lưu vực hạ lưu sông Mekong bao gồm địa phận Lào, Campuchia và Việt Nam.

Họ đưa ra những lời đổ tội cho đập thủy điện: hủy hoại cân bằng hệ sinh thái, cạn kiệt nguồn nước hạ lưu vào mùa hạ và gây nhiễm mặn cho đồng bằng, tăng lũ lụt cho mùa lũ, giảm phù sa, tiêu diệt nghề đánh cá của người Campuchia và người VN…

Xin hỏi các “Nhà khoa học” ấy rằng: Thế giới này có bao nhiêu quốc gia có thủy điện?, có bao nhiêu chục nghìn nhà máy thủy điện?, có bao nhiêu con sông đã xây dựng đập thủy điện?, có đập thủy điện của nước nào, có con sông nào và lưu vực hạ lưu sông của nước nào đã thể hiện những “tội lỗi” như họ tuyên truyền? Có ai trên thế giới này đã tuyên truyền theo giọng điệu của họ?.

Đơn cử, hãy nhìn ở VN, từ năm 1963 đến nay khắp nước đã xây dựng hàng ngàn thủy điện trên hầu hết các dòng sông, thử hỏi có dòng sông nào, lưu vực nào chịu hậu quả xấu xa tai hại như họ nói?.

Dễ thấy nhất là sông Đà và sông Hồng, và lưu vực hạ lưu của chúng là cả đồng bằng Bắc Bộ. Thượng nguồn, chúng ta đã xây những đập thủy điện rất lớn, như đập Hòa Bình 9 tỷ m3, 2000 MW, đập Sơn La 9,2 tỷ m3, 2400 MW, thủy điện Thác Bà, Thái Nguyên,…Những thủy điện đó đã gây ra tai họa gì cho đồng bằng sông Hồng?. Nếu như những lời tuyên truyền của các “Nhà khoa học” âý là đúng, thì chắc chắn hơn 50 năm qua đồng bằng sông Hồng đã thành vùng đất chết, cư dân đồng bằng sông Hồng chắc không sống đến được ngày hôm nay.

 Chỉ riêng thủy điện Hòa Bình, hơn 25 năm qua với 5,6 tỷ m3 nước điều tiết, đã cứu đồng bằng sông Hồng khỏi những trận lụt khủng khiếp. Những “Nhà khoa học” suốt ngày lớn tiếng này, chắc không còn nhớ tới những trận vỡ đê đã từng nhiều lần xảy ra, và nguy cơ vỡ đê thường xuyên đe dọa sự sống cư dân đồng bằng những năm trước đó. Ở lứa tuổi của các “Nhà khoa học” này, chắc họ đã từng nhiều năm thấp thỏm lo sợ mỗi khi lũ sông Hồng xuống, từng biết hàng triệu người phải quang gánh cuốc xẻng đào đắp hộ đê. Mới chỉ 25 năm nay không còn nông nỗi lụt lội đê điều nữa, chẳng lẽ họ chóng quên vậy sao? Hay họ cố tình bịa đặt những điều không có thật để lừa dối dân chúng?

25 năm trước nạn hạn hán ở sông Hồng cũng đáng sợ không  kém nạn lụt, hàng năm người dân cứ phải gồng mình lên chống hạn. Nhưng cũng nhờ thủy điện Hòa Bình, mà đủ nước chống hạn, dù những năm gần đây hạn hán vô cùng khốc liệt.Thế mà bây giờ họ vội vàng quên ngay nông nỗi đó.

Từ năm 1964 với thủy điện Thác Bà và từ năm 1989 với thủy điện Hòa Bình,  cho đến nay chưa hề có dấu hiệu nào, và cũng chưa hề nghe ai nói tới câu chuyện mất cân bằng hệ sinh thái và hủy diệt hệ sinh thái của hạ lưu sông Hồng và đồng bằng sông Hồng.

Tại sao những “nhà khoa học” này cứ ra sức tuyên truyền những điều không có thật, cứ ra sức vận động lôi kéo mọi người tin vào những lập luận phi khoa học?. Tại sao họ lại cố tình quên những sự thật, những việc xảy ra ngay trên đất nước mình?

Xin được vạch trần những lời vu vạ của họ:

1. Về lũ, hạn, xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long.

Những “nhà khoa học” kia chắc chắn không có 1 chút kiến thức nào về thủy lợi, nhưng lại cao giọng nói về thủy lợi.

Chuyện lũ lụt, hạn hán, rồi xâm nhập mặn chính là “thủy hại”. Để chống lại “thủy hại” con người hàng ngàn năm nay đã xây dựng các công trình “thủy lợi”, đầu tiên là những con đê ngăn nước lụt. Rồi người ta xây dựng các hồ chứa nước, gọi là hồ thủy lợi. Chức năng thủy lợi của các hồ chứa, là vào mùa lũ, chứa nước lũ vào hồ, để giành, mùa khô xả nước để giành trong hồ ra chống hạn. Hai trăm năm trước người Mỹ đã bắt đầu xây dựng hồ thủy lợi, đến nay họ có tới dăm nghìn hồ. Ở Việt Nam, trước năm 1945 người Pháp đã xây nhiều công trình thủy lợi lớn, như Bái Thượng ở Thanh Hóa, Đô Lương ở Nghệ An. Hiện nay chúng ta có hàng trăm hồ thủy lợi lớn nhỏ, như hồ Dầu Tiếng (Dung tích toàn hồ 1,7 tỷ m3, dung tích điều tiết 1,5 tỷ m3) ở Tây Ninh, hồ Kẻ Gỗ (Dung tích toàn hồ 0,45 tỷ m3, dung tích điều tiết 0,35 tỷ m3) ở Hà Tĩnh. Từ đầu thế kỷ 20, người Mỹ bắt đầu cải tạo các hồ thủy lợi thành hồ thủy điện, và xây mới thêm nhiều hồ thủy điện, có mặt trên hàu hết các dòng sông, toongrcongj có khoảng 3000 hồ. Việt Nam hiện nay có rất nhiều hồ thủy điện, hầu hết là những hồ vừa và nhỏ. Chỉ có số íthồ thủy điện lớn như Hòa Bình (1989) (Dung tích toàn hồ 9,45 tỷ m3, dung tích điều tiết 5,6 tỷ m3), Thác Bà (1964) (Dung tích toàn hồ 2,9 tỷ m3, dung tích điều tiết 2,3 tỷ m3) ở miền Bắc, hồ thủy điện Trị An(1984) (Dung tích toàn hồ 2,75 tỷ m3, dung tích điều tiết 2,55 tỷ m3) ở miền Nam, là những hồ chứa có khả năng làm công tác thủy lợi, và được giao nhiệm vụ phục vụ thủy lợi. Hầu hết các thủy điện còn lại với dung tích hồ không lớn, không có khả năng làm thủy lợi, không được giao làm thủy lợi, vì Dung tích điều tiết quá ít, không có tác dụng gì đáng kể đến công tác thủy lợi của dòng sông.

Đặc biệt, riêng hạ lưu sông Mekong Trời phú cho chúng ta một hồ thủy lợi tự nhiên rất lớn, là biển hồ Tông Lê Sap trên đất Campuchia. Mùa lũ sông Mekong nước chảy từ sông vào hồ, hồ chứa lũ tới hơn 72 tỷ m3, sâu 11 mét. Hồ cắt lũ khiến đồng bằng Mekong của Campuchia và Việt Nam tránh được ngập lụt. Tới mùa khô hạn, nước sông Mekong giảm xuống rất nhiều, lúc đó nước từ biển hồ lại tuôn ra, cuối mùa khô hồ chỉ còn sâu 1 mét, lòng hồ chỉ còn khoảng 1,6 tỷ m3, nghĩa là đã san sẻ hơn 70 tỷ m3 cho hạ lưu, nhờ vậy mà hạ lưu sông Mekong không bị hạn, không bị nhiễm mặn. Nói cách khác, hàng triệu năm nay Biển hồ này đã thường xuyên đảm bảo chắc chắn nhiệm vụ thủy lợi cho lưu vực hạ lưu sông Cửu Long trên đất Campuchia và Việt Nam, một cách hoàn toàn tự nhiên, không cần sự can thiệp của con người. Với trình độ khoa học công nghệ hiện nay của nhân loại, sự can thiệp nếu có của con người vào hoạt động của Biển hồ thực ra sẽ vô cùng bé nhỏ so với năng lực tự nhiên của nó.

Lưu ý rằng chỉ với 5,6 tỷ m3 điều tiết mà thủy điện Hoà Bình đã cứu được đồng bằng sông Hồng, thì 70 tỷ m3 của Biển hồ, nhiều hơn 12 lần thủy điện Hòa Bình, dư sức phục vụ thủy lợi cả miền châu thổ sông Mekong.

 Hồ chứa của thủy điện Don Sahong có dung tích bao nhiêu, chúng tôi đã cố tình tìm trên mạng nhưng không thấy. Nhưng so sánh với những hồ thủy điện có điều kiện địa hình tương tự, với công suất 260 MW, thì dung tích của hồ Don Sahong chỉ trong khoảng từ 500 triệu đến 700 triệu mét khối.

Dung tích này chỉ chưa bằng 1% của Biển Hồ.

Tại sao những “Nhà khoa học” lại không nhận ra điều này? Rõ ràng rằng tác dụng thủy văn, thủy lợi của hồ Don Sahong đối với dòng sông Mekong nếu có thì chỉ dưới 1% so với tác động của Biển Hồ, trong kỹ thuật con số dưới 1% có thể coi như bằng 0.

Có một điểm rất đặc biệt của hồ Don Sahong khiến nó không gây bất cứ thay đổi chế độ thủy văn thủy lợi tự nhiên nào của dòng sông Mekong. Điều này được giải thích như sau:

Đập và hồ Don Sahong nằm trong phạm vi vùng Thác Khone.

Vùng Thác Khone là một địa danh rất nổi tiếng trên dòng chính sông Mekong, thuộc lãnh thổ Lào, sát biên giới với Campuchia, cao 21 mét, dài gần 10 km theo chiều dài sông. Dòng sông Mekong ở đây được chia làm 7 nhánh song song, cách nhau bởi 6 đảo lớn. Mỗi nhánh trong 7 nhánh lại bị chia ra nhiều nhánh nhỏ với rất nhiều đảo nhỏ.

Dòng chảy trong 7 nhánh này không đồng đều, phụ thuộc vào địa hình của từng dòng, nói chung mỗi nhánh gồm nhiều ghềnh thác nhỏ, với tổng chiều cao chênh lệch giữa đầu thượng lưu và đầu hạ lưu là 21 mét. Thác nổi tiếng nhất cũng là thác lớn nhất là Thác Khone, nằm ở gần chính giữa nhánh thứ 5 tính từ bên phải, và thác Phapheng nằm ở khoảng giữa nhánh thứ nhất tính từ bên phải. Chính vì sự nổi tiếng của Thác Khone nên cả vùng này được người ta gọi là Thác Khone.

Đập Don Sahong nằm cuối nhánh Hou Sahong, là nhánh thứ ba tính từ bên phải, cách biên giới Lào-Campuchia khoảng 2 Km. Đập Don Sahong cao 2 mét bằng cao độ của mực nước thượng lưu. Đập sử dụng nước 1.800 m3/giây để chạy máy phát điện 260 MW.

Lưu lượng trung bình mùa khô ở vùng Thác Khone là 13.000 m3/giây, phần chảy qua đập Don Sahong để chạy máy phát điện là 8.000 m3/giây, còn lại 5.000 m3/giây sẽ chia  cho 6 nhánh sông còn lại. 8.000 m3/giây sau tourbin phát điện cùng với 5.000 m3/giây chảy qua 6 nhánh sẽ hợp lưu lại thành 13.000 m3/giây đổ vào dòng chính Mekong. Như vậy lưu lượng sông Mekong phía trên và phía dưới vùng Thác Khone không khác gì nhau, đập Don Sahong không giữ lại trong hồ một giọt nước nào, không thể đổ lỗi cho Don Sahong làm cạn kiệt dòng sông Mekong vào mùa khô.

Về mùa lũ, lưu lượng bình quân của dòng Mekong ở vùng này là 49.000 m3/giây, riêng đập Don Sahong vẫn chỉ lấy 8.000 m3/giây cho tourbin máy phát điện, còn lại 41.000 m3/giây sẽ chia cho cả 7 nhánh. Và cũng tương tự như mùa khô, tất cả bao nhiêu nước trên thượng lưu cũng nguyên vẹn đổ xuống hạ lưu, hồ Don Sahong không tạo ra một giọt nước nào, dòng chảy của Mekong không có gì thay đổi khi tồn tại đập Don Sahong, và vì vậy không thể đổ tội cho đập Don Sahong gây ra lụt lội.


                                                 Bản đồ Vùng Thác Khone

(https://www.google.com/maps/place/Th%C3%A1c+Khone,+L%C3%A0o/@13.9534702,105.9132189,13z/data=!4m2!3m1!1s0x31130f8e0a123551:0xfcc65dad30391b9f)

 


Bản đồ Vùng Thác Khone (http://laoenergy.la/pageMenu.php?id_menu=52)

Chúng tôi không hiểu nổi tại sao các “Nhà khoa học” lại cứ gồng mình lên để chứng minh tội lỗi của đập Don Sahong? Họ nhằm mục đích gì?

2. Về việc tuyệt chủng giống cá tra dầu ở vùng Thác Khone và các giống cá di sinh khác.

Vùng Thác Khone là nơi sinh sống của loài cá tra dầu, một loài cá da trơn đang có nguy cơ tuyệt chủng. Là loài cá nước ngọt lớn nhất trên thế giới, dài tới 3 mét, cân nặng tới 293 kg. Giới khoa học chỉ biết đến loài cá này từ năm 1930 khi nó được "khám phá" tại một chợ cá ở Phnom Penh (Campuchia) và cho đến nay vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về loài cá này.

Cá tra dầu to và khỏe, có năng lực lên xuống các thác ghềnh nhỏ trong vùng Thác Khone, chứ chúng không thể vượt lên hai thác lớn là Thác Khone và Thác Phapheng. Tập tính di sinh của loài cá này là vào mùa sinh sản cá mẹ ngược dòng Mekong lên quá vùng Thác Khone, đẻ trứng và nở con, sau đó cá con lại xuôi dòng về sinh sống và trưởng thành trong vùng Thác Khone. Trên thế giới có một số loài cá có tập tính này. Ở những dòng sông có loài cá với tập tính tương tự, khi xây đập thủy điện chắn ngang dòng sông người ta phải tạo Thang cá cho chúng vượt lên thượng lưu sinh nở. Ở Việt Nam đã có hàng ngàn hồ đập, thủy điện, nhưng chỉ ở sông Chảy là có một loài cá với tập tính này, năm 1963 Liên Xô giúp xây dựng thủy điện Thác Bà, đã làm một Thang cá. Ở Mỹ, có mấy ngàn hồ đập, thủy điện, trong đó có khoảng 100 đập có Thang cá cho loài cá di sinh.

Riêng tại thủy điện Don Sahong, đập chỉ chắn ngang một nhánh trong bảy nhánh song song, loài cá di sinh không bị chặn, vì vẫn có thể vượt lên theo 6 nhánh còn lại. Người Lào trong dự án thủy điện Don Sahong đã có thiết kế chi tiết con kênh cho loài cá tra dầu.

Nhưng lạ lùng thay, các “Nhà khoa học” lại đưa ra những lí sự rất kì cục rằng kinh nghiệm ở Thái lan các loài cá không chịu theo Thang cá vượt lên sinh sản, họ nói mà không trích dẫn chứng cớ. Gần đây, trong một hội thảo ở TP.HCM họ còn tung ra một bài viết nói rằng, số lượng cá vượt lên Thác Khone là 30 tấn/giờ, không thể di chuyển theo Thang cá của Lào được. Thật là một luận điệu trâng tráo, khi chính miệng họ nói loài cá này còn lại rất ít, sắp tuyệt chủng và được vào sách đỏ. Họ còn bịa đặt trên sông Cửu Long có tới 32 loài cá với tập tính vượt Thác Khone lên Lào sinh nở, trong đó có những loài cá sinh sống ở cửa biển Tây Nam Bộ nhưng  lại vượt lên tận tỉnh Lu ăng Prabang của Lào để sinh sản. Theo lời tuyên truyền này của họ thì hóa ra những loài cá này đã vượt hơn 1600 Km để tìm nơi sinh sản!

Một điều vô lý hết sức của lời vu vạ này rằng đập Don Sahong sẽ ngăn chặn đường đi của cá. Ai cũng hiểu nếu lũ cá bị chặn ở nhánh Don Sahong, chúng sẽ dịch chuyển 6 nhánh còn lại, chứ không chịu chết như các “Nhà khoa học” kia nói.

3. Hủy hoại sinh thái đồng bằng sông Cửu Long.

Các “Nhà khoa học” này luôn miệng đe dọa thủy điện Don Sahong sẽ làm mất cân bằng sinh tháihủy diệt hệ sinh thái của toàn bộ hạ lưu sông Mekong, dẫn đến mất cân bằng sinh thái và hủy diệt hệ sinh thái của cả miền châu thổ thuộc Campuchia và Việt Nam.

Họ lí sự rằng, chỉ cần tuyệt chủng một loài động vật (trong trường hợp này là cá tra dầu) sẽ dẫn đến mất cân bằng sinh thái của cả hạ lưu sông Cửu Long, và khi cân bằng sinh thái đã bị mất thì sẽ dẫn đến hủy diệt toàn bộ hệ sinh thái của hạ lưu sông Cửu Long, từ đó hủy diệt luôn toàn bộ hệ sinh thái của đồng bằng sông Cửu Long.

Đó là mớ lí luận kì quặc, ai cũng biết thế giới sinh vật tồn tại trên Trái đất 3 tỷ năm nay, luôn có những loài động vật được sinh ra và bị hủy diệt, có thể đếm được hàng triệu loài. Không hiểu các “Nhà khoa học” nọ vì cớ gì lại lớn tiếng nói rằng mất một loài động vật sẽ mất cân bằng sinh thái.

Thực ra khi cân bằng sinh thái bị phá hoại bởi một lí do nào đó thì sẽ có một loạt loài động vật bị tiêu diệt. Nhưng rồi sau đó lại có cân bằng sinh thái mới, lại có hàng loạt loài động vật được sinh ra.

Hơn nữa, nếu chẳng may vì con cá tra dầu tuyệt chủng mà sông Mekong mất cân bằng sinh thái như mấy “Nhà khoa học” này tuyên truyền, thì cũng không có lí do gì để nói rằng sự mất cân bằng này lại dẫn đến hủy diệt cả hệ sinh thái.

Cho nên thật lạ lùng khi nghe mấy “Nhà khoa học” này nói, chỉ vì tuyệt diệt con cá tra dầu ở Thác Khone lại dẫn đến hủy hoại nghề cá của Campuchia và Việt Nam, rồi dẫn đến hủy diệt cả hệ sinh thái này, đến nổi các trại chim cò ở Đồng Tháp cũng bị hủy diệt theo.


No comments:

Post a Comment