Ngày
16/1/2023, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tổ chức
Hội nghị quán triệt và triển khai Nghị quyết 31 của Bộ Chính trị về phương hướng,
nhiệm vụ phát triển TPHCM đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Ông Võ Văn Thưởng,
Thường trực Ban Bí thư chủ trì Hội nghị, tham dự Hội nghị có các ông Nguyễn Văn
Nên, Bí thư Thành ủy TPHCM; ông Nguyễn Trọng Nghĩa, Trưởng ban Tuyên giáo Trung
ương; ông Lê Minh Khái, Phó Thủ tướng.
Ông Võ Văn Thưởng đã nhấn mạnh, TPHCM cần tập trung cho công tác
quy hoạch, đô thị, đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại để xứng
tầm một đô thị có quy mô dân số, kinh tế lớn nhất cả nước. Hiện nay, hạ tầng của
địa phương, nhất là hạ tầng giao thông còn phát triển chậm.
Chúng tôi hoàn toàn đồng tình với quan điểm này, đặc biệt lo lắng
và đã suy nghĩ nhiều về vấn đề “hạ tầng giao thông còn phát triển chậm”.
1. Nguyên nhân của tình
trạng này:
Có thể kể ra rất nhiều
nguyên nhân. Chúng tôi đã nhiều lần phát biểu trên các Phương tiện truyền thông
chính thống của nước ta, trong các Hội nghị Hội thảo của TP. HCM, của Việt Nam
và của Quốc tế tại TP. HCM.
Nguyên nhân đầu tiên là
Thành Phố không có một
Quy hoạch tổng thể toàn diện cho phát triển toàn Thành Phố, mà chỉ có những Quy hoạch manh mún của từng Ngành, từng Lĩnh vực,
dẫn đến các Quy hoạch này trái ngược nhau, chồng chéo nhau, phủ định lẫn nhau,
ví dụ Quy hoạch giao thông quyết định nâng độ cao mặt đường để chống ngập cho
đường, nhưng việc này lại ngăn chặn thoát nước, gây thêm ngập cho Thành Phố. Hoặc
Quy hoạch xây dựng đô thị và Quy hoạch giao thông ra sức lấp những vùng trũng,
những hồ ao, để lấy đất xây nhà và làm đường, hậu quả là khi triều cường, nước
triều cường không có chỗ thoát, hậu quả là triều cường dâng cao tràn ngập Phố
phường. Chúng tôi đã từng ví dụ câu chuyện này tương ứng với câu chuyện “các Thầy
bói mù xem voi”, một ông ôm được chân voi, tuyên bố voi là cái cột đình, một
ông sờ phải tai voi, tuyên bố voi là cái quạt, một ông sờ phải cái vòi, tuyên bố
voi là con đỉa lớn.
Nguyên nhân thứ hai là
Quy hoạch phát triển của từng Ngành cũng lại là những Quy hoạch không
toàn diện, không khoa học, không tính tới tối ưu, mà chỉ là Quy hoạch theo
ước vọng, theo ý chí, theo hoang tưởng. Ví dụ trong Quy hoạch giao thông đô thị
của Thành Phố, đã dự kiến dồn sức để xây dựng nhiều tuyến Metro đắt tiền, với
lý do chống kẹt xe. Trong khi chúng tôi đã từng có nhiều phản biện, kiến nghị
chứng minh rằng dăm ba tuyến Metro, tốn hàng chục tỉ Đô la nhưng không bao giờ
có thể giải quyết được tình trạng kẹt xe của Thành Phố.
Nguyên nhân thứ ba là
Ước vọng thì lớn, nhưng
không có nguồn lực.
Ngạn ngữ Việt Nam có câu “có Thực mới vực được Đạo”. “Đạo” của
chúng ta rất hay, Quy hoạch rất hoành tráng, đồ sộ, ý tưởng rất vĩ đại, nhưng
“Thực” của chúng ta thì ngược lại, Vốn không có, Tiền không có, muốn Vay không
ai cho vay. Ví dụ, đến năm 2000,
tình trạng ngập của TP.HCM hết sức nghiêm trọng. UBND TP.HCM và Chính phủ đã thuê Tư vấn nước ngoài, là cơ quan Hợp tác Nhật Bản
(JICA), thiết lập Quy hoạch chống ngập cho thành phố. Nội dung
chính của Quy hoạch là: sửa chữa hệ thống cống rãnh cũ, xây dựng hệ thống cống
rảnh thoát mới, khai thông các kênh rạch, dự tính thực hiện trong 10 năm, từ
năm 2000 đến 2010, với tổng kinh phí là 10 tỷ USD.
Quy
hoạch này được UBND TP.HCM, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, và Chính phủ
phê duyệt. Nhưng thực tế là chúng ta không có tiền để thực hiện. Cho đến năm
2018 chúng ta mới chỉ vay được khoảng trên 2 tỷ USD, thực hiện được khoảng 1/5
công việc của Quy hoạch này. 18 năm trôi qua, nhưng còn gần 4/5 số lượng công
trình chống ngập của Quy hoạch năm 2000 vẫn chưa làm, hết ngập sao được !
Nguyên nhân thứ tư là
Thích “đẻ” ra những Công trình lớn, tiêu nhiều tiền,
nhưng không hiệu quả.
Ví dụ,
khoảng tháng 3/2016, Trung tâm Điều hành các Chương
trình Chống ngập TP. HCM đã trình Thành phố Dự án 1.400 tỷ mua 63 máy bơm di động,
Chúng tôi đã vạch rõ trên công luận cái không tưởng, ngớ ngẩn, phi lý của giải
pháp này. Cũng may Thành Phố đã kịp thời dẹp bỏ Dự án này.
Nhưng tiếc thay, đầu
năm 2017, Thành Phố lại phê duyệt và cho thực thi một Dự án của Tập đoàn Quang Trung, xây dựng Trạm bơm “khủng”
ở đường Nguyễn Hữu Cảnh, phía dưới cầu Thủ Thiêm, cách bờ sông Sài Gòn khoảng
100m.
Ngay lúc đó, chúng tôi đã chứng
minh trước công luận rằng, đây là câu chuyện ngớ ngẩn, phi Khoa học, phi Kinh tế.
Từ những sai trái về khoa học kỹ thuật của
công trình, chúng tôi đã dự báo trước khả năng thất bại của giải pháp này. Và kết
quả là, nhiều lần chạy thử đã chứng minh dự báo của chúng tôi là chính xác. Cuối
cùng Thành Phố HCM phải công nhận công trình này là tốn tiền vô ích, và dẹp bỏ,
dù đã xây dựng hoàn chỉnh.
đi tàu bus này. Nhưng Thành phố vẫn phê duyệt, và chi mấy
trăm tỷ để xây dựng và vận hành tuyến đầu
tiên từ Bến Bạch Đằng Quân I, đến Bến Linh Trung, 15 Km. Sau khi vận hạnh 1năm,
Thành phố rút ra kết luận, đúng như dự báo của chúng tôi.
Nhiều công trình thi công kéo dài nhiều năm vẫn không
hoàn thành vì vướng mắc về Pháp lý
Ví dụ,
đoạn đường kết nối từ đường Phạm Văn Đồng đến Nút giao thông Gò Dưa (Tp.Thủ
Đức) là dự án thành phần thuộc tuyến đường Vành Đai 2, dài 2,7 Km, vốn đầu tư
hơn 2.700 tỷ đồng, do Công ty Cổ phần Đầu tư Văn Phú – Bắc Ái đầu tư, thực hiện
theo hình thức BT (xây dựng, chuyển giao).
Dự án được khởi công xây
dựng từ năm 2017, nhưng cho đến nay vẫn còn dang dở, cỏ cây dại mọc um tùm.
Hoặc công trình xây Cống
chống ngập triều cường 10.000 tỷ bị đình trệ nhiều năm, vì Công ty Tư vấn giám
sát thi công, đã làm đúng luật pháp, không chấp nhận chất lượng từng phần của Công
trình do bên thi công thực hiện, nhưng chủ đầu tư (TP HCM) và Công ty thi công đã
thực thi những giải pháp quyết liệt nhưng sai luật pháp để khuất phục Công ty
giám sát thi công, mà không đưa ra pháp luật giải quyết.
Vấn
đề thứ nhất,
Giải
quyết nạn kẹt xe, bằng cách Xây dựng Hệ thống giao thông công cộng rẻ tiền phủ
khắp Thành phố:
Hầu hết các Thành phố lớn trên Thế giới, dân số có thể gấp
hai gấp ba lần dân số TP HCM, nhưng không đâu bị kẹt xe. Tại sao vậy? Có thể thấy
trực quan dễ hiểu, là người ta hầu hết đi xe công cộng, còn ở Việt Nam và ở TP
HCM hầu hết đi xe gắn máy cá nhân.
Từ đó rất dễ hiểu để
nhận ra rằng nguyên nhân kẹt xe ở các Thành phố Việt Nam chính là xe gắn máy
Như vậy để chấm dứt nạn kẹt xe, phải xây dựng Hệ thống
giao thông công cộng thật tốt, đủ khả năng phục vụ mọi người một cách thuận lợi.
Lúc đó mọi người sẽ tự nguyện bỏ xe gắn máy cá nhân để đi xe công cộng, vừa rẻ
tiền lại an toàn “khỏe người”, và Thành phố hết kẹt xe.
Thực ra, ở các Thành phố của Việt Nam và ở TP HCM đều có
Hệ thống giao thông công cộng, nhưng Hệ thống đó ốm yếu quặt quẹo bé xíu, thường
số tuyến xe công cộng rất hạn chế, chỉ bao phủ một số tuyến đường chính, chỉ chiếm chừng 10% chiều
dài của các con đường trong Thành phố. Ngược lại ở các nước khác, người ta xây
dựng Hệ thống xe công cộng phủ kín toàn Thành phố, đến mức bất cứ người dân
nào, sinh sống ở bất cứ ngóc ngách nào của Thành phố cũng chỉ cần đi bộ 200 –
300 m là đến Bến xe công cộng. Người ta có thể chuyển Tuyến xe tại các giao điểm,
để đến mục tiêu, xuống xe ở Bến chỉ cách mục tiêu chừng 200 – 300 m. Vì vậy người
ta rất thích thú và thuận lợi đi xe công cộng, không có bất cứ trở ngại nào, họ
không “dại gì” đi lại bằng xe gắn máy, cho tốn tiền, mất an toàn.
Còn với Hệ thống xe công cộng của Việt Nam, người dân
KHÔNG THỂ sử dụng được, chứ không phải KHÔNG THÍCH sử dụng, như nhiều người vẫn
lầm tưởng.
Tại sao vậy? Bởi vì, ở Việt Nam chỉ khoảng 1 - 2% dân số
là CÓ THỂ sử dụng xe công cộng, khi chỗ ở của họ gần Bến xe công cộng và mục
tiêu đến của họ cũng gần Bến xe công cộng. Còn 98 – 99% không có điều kiện đó,
thì đành phải đi xe gắn máy cá nhân “cho khỏe”!
Vì vậy, Thành phố
nên gấp rút Xây dựng Hệ thống giao thông công cộng nhanh chóng, tiết kiệm,
khoa học, thuận lợi cho toàn dân
Hệ thống giao thông cộng cộng của các nước có thể gồm: 1.
Xe buyt chạy dầu, 2. Xe buyt chạy điện (Troleibus), 3. Tàu điện bánh sắt
(Tramvai), 4. Tàu điện trên cao, 5. Tàu điện ngầm Metro.
Trong 5 loại đó thì Chi phí xây dựng rẻ tiền nhất, dễ làm
nhất, thuận lợi nhất, là Xe buyt chạy dầu, chỉ cần mua sắm xe buyt, (thường rất
rẻ tiền), xây dựng các Trạm đón khách dọc đường cũng rất rẻ tiền, xây dựng các
nhà xưởng sửa chữa bảo dưỡng xe buyt, cũng rẻ tiền, đường đi thì dã có sẵn của Thành
phố, không phải làm thêm đường, không tốn chi phí làm đường.
Chúng tôi đã từng kiến nghị Thành phố, việc đầu tiên, có
thể làm ngay là xây dựng Mạng lưới xe buyt phủ khắp Thành phố như ở các nước
khác trên Thế giới, và đã tính toán Tổng chi phí cho Mạng lưới này, báo chí Việt
Nam đã đăng: “Tổng chi phí mua sắm số xe buýt trên và chi
phí đầu tư các cơ sở hạ tầng khác phục vụ như bến bãi, xưởng bảo dưỡng, sửa
chữa, bảo dưỡng nhà chờ… vào khoảng 11,22 tỉ USD.
Với
việc đầu tư hoàn chỉnh Hệ thống xe buýt phủ khắp thành phố như trên, mọi người
sẽ cất xe máy vào kho và tranh nhau đi… “xe buýt”.
Nếu
xây dựng Hệ thống Xe buyt chạy điện
(Troleibus), hoặc Tàu điện bánh sắt (Tramvai), hoặc Tàu điện trên cao, thì chi
phí sẽ lớn hơn rất nhiều, do phải làm Hệ thống điện chạy dọc theo đường Xe buyt chạy điện (Troleibus),
hoặc làm hệ thống đường sắt trên mặt đất và đường điện chạy dọc theo đường Tàu
điện bánh sắt (Tramvai), hoặc phải làm cầu trên cao và đường dây điện trên cao
cho Tàu điện trên cao.
Còn đầu tư xây dựng tàu điện ngầm là cực kỳ đắt đỏ, mất
nhiều thời gian, mất nhiều năm để làm được một tuyến đường, và mỗi tuyến đường
Metro dù vô cùng đắt đỏ, thì đối với người sử dụng xe công cộng, nó cũng chẳng
hơn gì một tuyến xe buýt rẻ tiền (trong điều kiện xe công cộng không có mạng lưới
phủ kín Thành phố).
Tóm lại chúng tôi cho rằng Thành phố phải sớm quyết định
tập trung xây dựng Mạng lưới xe buýt chạy dầu phủ khắp Thành phố, chỉ tốn hơn
11 tỷ Đô la mà hoàn toàn có thể giải phóng tình trạng kẹt xe, tiết kiệm thời
gian tiền bạc cho người dân, giảm bớt ô nhiễm môi trường do hàng triệu chiếc xe
gắn máy tuôn ra hàng ngày.
Vấn
đề thứ hai,
Tập
trung sức lực nghiên cứu nghiêm túc về việc đầu tư xây dựng “Thành phố giao
thông thông minh”
Câu chuyện về Thành phố giao thông thông minh đã rộ lên
chừng 10 năm trước, nhưng đến nay tất cả trở lại im lìm, mọi người không muốn
nhắc đến hoặc không giám nhắc đến.
Tại sao vậy? tại vì đa số người ta chỉ nghe nói chuyện
này, nhưng thực sự không hiểu Thành phố giao thông thông minh là cái gì. Từ đó
đẻ ra nhiều chuyện trớ trêu, lãng phí hàng 100 triệu Đô la và những chủ trương
ngớ ngẩn. Ví dụ, Thành phố đã bỏ ra hơn 160 triệu Đô la, mua một Hệ thống thiết
bị điện tử điều khiển giao thông thông minh, mua về lắp đặt, rồi để không, vì Hệ
thống không biết sẽ điều khiển ai, điều khiển cái gì, điều khiển ở đâu, sau ba
năm không vận hành, không bảo dưỡng Hệ thống đó trở thành đống sắt rỉ. Lại nữa,
rất nhiều Công ty kỹ thuật điện tử, đã bỏ rất nhiều công sức, nghiên cứu, thí
nghiệm, những thiết bị điều khiển giao thông thông minh, hy vọng được lắp đặt ở
những nút giao thông của Thành phố, được tham gia vào Hệ thống thông minh của
Thành phố, nhưng cuối cùng mất công tốn tiền mà chẳng được gì
Vì thực ra “Hệ thống điều khiển giao thông thông minh” là
một Hệ thống hoàn chỉnh gồm hàng trăm hàng nghìn thiết bị, tất cả phải được đồng
nhất về kỹ thuật, công nghệ, vận hành, được điều khiển đồng bộ bởi một Trung
tâm duy nhất của toàn Thành phố.
Những Hệ thống thiết bị này các nước tiên tiến đã nghiên
cứu rất kỹ, đã chế tạo, đã sử dụng, và đã thành thương phẩm. Thành phố muốn trở
thành Thành phố giao thông thông minh thì chỉ cần có TIỀN, mua một Hệ thống thiết
bị đồng bộ của một hang sản xuất, và cử người đi học cách vận hành sử dụng.
Rất tiếc, Viện Điện – Điện tử - Tin học EEI và Hội Tư vấn
Khoa học Công nghệ và Quản lý HASCON đã xây dựng Đề cương Đề tài nghiên cứu
khoa học “Lộ trình tiến tới Thành phố giao thông thông minh”, trong đó vạch rõ
những khái niện khoa học căn bản và nghiên cứu Lộ trình thực tế, phù hợp với
trình độ khoa học, trình độ văn hóa, trình độ phát triển kinh tế của Thành phố,
nhưng đề tài này đã không được Thành phố cấp kinh phí nghiên cứu.
Cho nên chúng tôi nghĩ việc cấp bách hiện nay là Thành phố
tổ chức nghiêm túc thực hiện Đề tài nghiên cứu khoa học “Lộ trình tiến tới Thành
phố giao thông thông minh”. Có như vậy Lãnh đạo Thành phố và mọi người có thể
hiểu được Thành phố thông minh nghĩa là gì, quá trình tiến tới mục tiêu đó sẽ
phải qua những bước nào, sẽ phải làm gì … và có lẽ từ đó sẽ tránh được những
hoang tưởng, những lãng phí vô ích.
3.
Những dự án giao thông trọng điểm của thành phố cần hủy bỏ hoặc dồn lực sớm thực
hiện
Vấn
đề thứ nhất,
Hủy bỏ kế hoạch xây dựng các tuyến Metro.
Đầu tư cho
Metro rất đắt. Ở các nước tiên tiến bình quân khoảng 100 triệu USD/1Km. Riêng ở
Việt Nam ta thì “đội giá” lên rất nhiều. Ví dụ, tuyến Metro thứ 5 từ ngã tư Bảy
Hiền đến siêu thị Metro quận 2, dài 8,9 Km, cuối năm 2014 điều chỉnh lại giá đầu
tư, tăng từ 833 triệu EURO, thêm 477 triệu EURO thành 1310 triệu EURO, tương
đương 1520 triệu USD, bình quân 170 triệu
USD/Km.
Điều
đó cũng có nghĩa là Metro chỉ có thể phát huy tính ưu việt của nó khi có mạng
lưới xe công cộng phủ khắp thành phố. Còn nếu không có mạng lưới xe công cộng
này thì Metro có ưu việt đến bao nhiêu đi chăng nữa, người dân cũng “không
thích” và “không thể” sử dụng Metro, giống như “không thích” và “không thể” sử
dụng xe buýt hiện nay của chúng ta.
Mặc dù Metro ở các nước có thể chở được hàng triệu hành khách mỗi ngày, nhưng ở Tp.HCM với hệ thống xe công cộng hiện nay, sẽ có bao nhiêu người sử dụng Metro, ai sẽ là người sử dụng Metro? Câu hỏi này được giải đáp dễ dàng giống như trường hợp các tuyến xe buýt hiện hữu của chúng ta, bởi vì một tuyến Metro xây dựng hết hàng tỷ USD, có khả năng chở hàng triệu người, nhưng thực chất nó chẳng khác gì một tuyến xe buýt công cộng hiện hữu của chúng ta, nghĩa là người dân “không thể” đi Metro được.
Thế
nhưng Thành phố chúng ta từ hơn 10 năm trước đã lập kế hoạch xây dựng 5 tuyến
Metro với Kinh phí mấy chục tỷ Đô la, đã khởi công xây dựng tuyến thứ nhất từ
năm 2010, đến nay đã 13 năm trời, mà vẫn chưa thể làm xong, vì thiếu Vốn ! Thế
nhưng Thành phố vẫn đang toan tính Khởi công thêm những tuyến tiếp theo !
Dừng
việc xây dựng đang dang dở của tuyến Metro số 1,
Tuyến Metro này khởi công xây dựng từ hơn 10 năm nay, đến
nay vẫn chưa hoàn thành, ngốn tiền ngân sách theo dự toán ban đầu là 19000 tỷ
VNĐ, rồi điều chỉnh nâng lên thêm 26000 tỷ, thành tổng cộng trên 45000 tỷ.
Không biết đến bao giờ sẽ hoàn thành, không thấy ai hứa, không biết đã chi tiêu
hết bao nhiêu tiền, và còn thiếu bao nhiêu tiền nữa, không biết đi vay ai và ai
cho vay …
Vấn
đề thứ ba,
Dừng
những Công trình xây dựng theo các Quy hoạch hoang tưởng, không mang lại lợi
ích.
Báo chí đã từng đưa tin Thành phố đã từng phê duyệt một số
Dự ân “Đào hồ chống ngập” ở Bình Chánh, Thủ Đức.
Chúng tôi đã lập tức phản biện, cho rằng những Công trình
loại này hoàn toàn phi khoa học, hoàn toàn không thể đạt được mục tiêu chống ngập,
nhưng lại vô cúng đắt đỏ, tốn rất nhiều sức người, sức của.
Nhưng sau đó Báo chí lại đưa tin, đã khởi công mấy Công
trình loại này. Chúng tôi không được biết có bao nhiêu Công trình đã xây dựng
xong, có bao nhiêu Công trình đang xây dựng dang dở.
Chúng tôi nghĩ rằng Thành phố nên lập tức dẹp bỏ các Công
trình xây dựng này.
Vấn
đề thứ tư,
Không
nên thực hiện Quy hoạch chống ngập triều cường.
Năm
2008 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Thành phố HCM đã cho thiết lập Quy
hoạch chống ngập triều cường cho TP HCM, Chính phủ và Thành phố đã phê duyệt
Quy hoạch này. Quy hoạch dự kiến xây dựng một con đê bao bọc toàn bộ các Quận
bên bờ phải sông Sai Gòn, với 13 Cống trên vòng đê, để khi triều cường dâng lên
thì đóng các Cống lại, nước triều cường không thể vào Thành phố, khi nước triều
cường hạ xuống thì 13 cửa Cống sẽ mở ra cho thuyền bè lưu thông và nước trong
Thành phố chảy ra ngoài sông Sài Gòn. Quy hoạch này ước lượng tổng chi phí gần
800 triệu USD (khoảng 20 nghìn tỷ).
Ngay khi Quy hoạch này được
phê duyệt công bố công khai, chúng tôi đã có ý kiến phê phán. Thứ nhất là, Quy
hoạch không phân tích và xác định nguyên nhân của tình trạng đỉnh Triều cường
ngày càng dâng cao. Từ chỗ không phân tích nguyên nhân đưa đến giải pháp phòng
chống là thụ động và sai lầm. Thứ 2, Quy hoạch lấy mức đỉnh triều cường năm
2008 là 1.53 m để làm cơ sở tính toán cho chiều cao của Đê bao Thành phố, không
dự liệu đến việc đỉnh triều cường càng ngày càng dâng cao. Thứ 3, không tính đến
việc, khi Đê bao ngăn nước triều vào Thành phố thì nước triều ở phía ngoài Đê
bao sẽ dâng lên bao nhiêu. Theo tính toán của một số Chuyên gia, mức nước triều
sẽ dâng thêm khoảng 0.5 m, sẽ nhận chìm vùng Quận 2, Quận 9 và Huyện Nhơn Trạch…v…v.
Chúng tôi đã đưa ra nguyên nhân chính của tình trạng này,
là do chúng ta đã lấp gần hết những không gian chứa nước, mà trước đây người
Pháp đã để dành cho nước triều. Lượng nước triều chảy vào khu vực thành phố vẫn
như thời xưa, nhưng diện tích mặt bằng của vùng trũng bị thu hẹp, và độ sâu của
vùng trũng không còn, thì buộc nước triều phải dâng lên.
Dự báo này chúng tôi đã phát biểu nhiều lần trong các Hội
thảo chống ngập của Việt Nam, của TP HCM và của Quốc tế, và đã viết nhiều bài
báo đăng tải trên các báo chính thống, đã nhiều lần phát biểu trên trên Radio
và truyền hình VN. Rất tiếc không được VN và thành phố lắng nghe.
Cũng rất đáng tiếc, là Thành phố vẫn thực thi Quy hoạch
chống ngập triều cường năm 2008, hiện đang xây dựng Cống lớn nhất với mức đầu tư gần 10.000 tỉ đồng.
Chúng tôi kiến nghị dừng thi
công Cống này và hủy bỏ hoàn toàn Quy hoạch nói trên.
Vấn đề thứ năm,
Nhanh chóng giải quyết các vướng mắc về pháp lý để có thể hoàn thành những Công trình giao thông xây dựng dở dang.
Chúng tôi không được biết đầy đủ, hiện tại đang có những
Công trình nào xây dựng dở dang nhưng không thể hoàn thành, vì vướng mắc về
pháp lý.
Qua Báo chí chúng tôi nghe nói có 2 trường hợp.
Một là, Đoạn đường kết nối từ đường
Phạm Văn Đồng đến Nút giao thông Gò Dưa (Tp.Thủ Đức) thuộc tuyến đường Vành Đai
2, dài 2,7 Km, được khởi công xây dựng
từ năm 2017, nhưng cho đến nay vẫn còn dang dở.
Hai là, Công trình xây Cống
chống ngập triều cường 10.000 tỷ bị đình trệ nhiều năm vì vướng mắc pháp lý
giữa Công ty Tư vấn giám sát thi công với Công ty thi công Công trình.
4. Nếu
hạ tầng giao thông TPHCM tiếp tục đi chậm sẽ dẫn đến hệ quả:
Nếu không nhanh chóng xây dựng Hệ thống giao thông công cộng
rẻ tiền phủ khắp Thành phố, thì người dân toàn Thành phố vẫn phải đi lại bằng
hàng triệu xe gắn máy. Đây là một lãng phí và thiệt thòi rất lớn đối với người
dân và đối với Thành phố:
- Lãng phí rất nhiều thời gian đi lại
- Tốn kém rất nhiều nhiên liệu
- Ô nhiễm môi trường, hại sức khỏe cộng đồng
-
Nguy cơ kém an toàn giao thông.
PV
PHƯƠNG NHI
No comments:
Post a Comment