Diệp Văn Sơn
Phó Chủ tịch Hội Tư vấn HASCON
Ủy viên BCH Trung ương Hội Hành chính học VN
Nguyên Phó Vụ trưởng, Phó trưởng Cơ quan đại diện Bộ Nội Vụ tại Tp. HCM.
Bài viết theo Thư mời của Ban pháp chế HĐND Thành phố, chuẩn bị cho kỳ hợp chuyên đề của HĐND Thành phố về CCHC, ngày 8/3/2018,
Phó Chủ tịch Hội Tư vấn HASCON
Ủy viên BCH Trung ương Hội Hành chính học VN
Nguyên Phó Vụ trưởng, Phó trưởng Cơ quan đại diện Bộ Nội Vụ tại Tp. HCM.
Bài viết theo Thư mời của Ban pháp chế HĐND Thành phố, chuẩn bị cho kỳ hợp chuyên đề của HĐND Thành phố về CCHC, ngày 8/3/2018,
1.1. Cải cách thể chế hành chính là gì?
Ở Việt Nam hiện nay chưa có văn bản quy phạm pháp
luật (VBQPPL) nào, kể cả các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước chính
thức định nghĩa khái niệm CCHC, cải cách thể chế hành chính. Nhưng trên thực tế
đã có một số quan niệm về CCHC như: (i) CCHC là sự thay đổi có kế hoạch, theo
một mục tiêu nhất định, được xác định bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong từng giai đoạn; (ii) CCHC không làm thay đổi bản chất của hệ thống hành
chính, mà chỉ làm cho hệ thống này trở nên hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân tốt
hơn so với trước, chất lượng các thể chế quản lý nhà nước đồng bộ, khả thi, đi
vào cuộc sống, cơ chế hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của bộ máy, chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan nhà nước sau khi tiến hành CCHC
đạt hiệu quả, đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế - xã hội (KTXH) của một quốc gia;
(iii) CCHC tuỳ theo điều kiện của từng thời kỳ, giai đoạn của lịch sử, yêu cầu
phát triển KTXH của mỗi quốc gia, có thể được đặt ra những trọng tâm, trọng
điểm khác nhau, hướng tới hoàn thiện một hoặc một số nội dung của nền hành
chính, đó là tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức, thể chế pháp lý, thủ
tục hành chính hoặc tài chính công1.
Theo các quan niệm trên, CCHC không phải là cải tổ
hay cách mạng mà là sự thay đổi có kế hoạch gắn với hoạt động quản lý hành
chính nhà nước (thuộc chức năng của cơ quan hành pháp), tùy điều kiện của từng
thời kỳ và mang một số nội dung cơ bản, trong đó có nội dung về cải cách thể
chế.
Theo cách trình bày nội dung của CCHC, cải cách thể
chế hành chính có thể được hiểu: (i) là cải cách quy trình xây dựng và thông
qua các VBQPPL liên quan đến hoạt động quản lý hành chính, nhằm làm rõ trách
nhiệm giữa cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan phối hợp và lấy ý kiến của người
dân; (ii) là biểu hiện sự kết hợp giữa CCHC và cải cách lập pháp nhằm hoàn
thiện các chế định pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động quản lý hành
chính phát sinh trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; (iii) là việc
xây dựng và hoàn thiện thể chế về kinh tế, tổ chức và hoạt động của hệ thống
hành chính, xây dựng và hoàn thiện các chế định pháp luật để điều chỉnh các
quan hệ pháp luật hành chính giữa các cơ quan nhà nước với công dân, giữa các
cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức, doanh nghiệp và giữa các cơ quan,
tổ chức với nhau.
Vậy có thể coi Thể chế hành chính nhà nước là thuật ngữ
dùng để chỉ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh về các mặt tổ chức và hoạt động, chế độ
công vụ, tài chính, nhân sự liên quan đến hệ thống các cơ quan hành chính nhà
nước; bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước trên mọi mặt đời sống
xã hội của bộ máy hành chính nhà nước.
Như vậy Thể chế hành
chính ngoài hệ thống văn bản quy pham pháp luật ,bên cạnh đó một hợp phần không
kém phần quan trọng là hệ thống các thủ tục.
2-Đánh giá chung
công tác cải cách hành chính của Thành phố
Công tác cải cách hành chính của được thực hiện trên cơ sở
các khuôn khổ chương trình cải cách hành của Chính phủ và Chương trình cải cách
hành chính là một trong 06 chương trình đột phá giai đoạn 2011-2015 theo Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ IX. Công tác cải cách hành chính của
Thành phố được thực hiện trên các lĩnh vực: cải cách thể chế, cải cách thủ tục
hành chính, cải cách tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công
chức, cải cách tài chính công, hiện đại hóa nền hành chính. Công tác cải cách
hành chính của Thành phố được triển khai dưới các hình thức sau:
- Ban hành các kế hoạch thực hiện công tác cải cách hành
chính trên địa bàn hàng năm và thực hiện một hệ thống thông tin, báo cáo định
kỳ kết quả công tác cải cách hành chính theo hàng quý, 06 tháng và năm. Thủ
trưởng các Sở ngành, Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận-huyện theo chức năng, nhiệm
vụ, thẩm quyền trực tiếp chỉ đạo thực hiện việc xây dựng kế hoạch cải cách hành
chính, xác định mục tiêu cụ thể, phân công cụ thể, thực hiện chế độ thông tin,
báo cáo, định kỳ.
- Phân công nhiệm vụ về cải cách hành chính cho một số Sở
chuyên ngành trên các lĩnh vực cải cách hành chính. Theo đó, Sở Tư pháp phụ
trách về cải cách thể chế; nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, ban hành văn
bản quy phạm pháp luật trên địa bàn Thành phố; cải cách tư pháp; cải cách thủ
tục hành chính, kiểm soát và đơn giản hóa thủ tục hành chính; tiếp nhận và xử
lý phản ảnh kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính. Sở Nội vụ
phụ trách về cải cách tổ chức bộ máy; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức. Sở Tài chính phụ trách mảng tài chính công. Sở
Thông tin và Truyên thông thực hiện việc ứng dụng công nghệ thông tin trong
quản lý hành chính nhà nước; công tác tuyên truyền về cải cách hành chính. Sở
Khoa học và Công nghệ áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO
vào hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Sở Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục
nghiên cứu, đề xuất những chính sách và giải pháp nhằm thực hiện sâu rộng hơn
chủ trương xã hội hóa trên những lĩnh vực Thành phố có thể thực hiện; Viện
Nghiên cứu phát triển Thành phố tiến hành khảo sát chỉ số hài lòng của tổ chức
và công dân về dịch vụ công. Mỗi năm, Ủy ban nhân dân Thành phố đều tổ chức sơ
kết, xây dựng chương trình thực hiện cụ thể, thường xuyên chỉ đạo, hướng dẫn và
đôn đốc các đơn vị Sở ngành, Ủy ban nhân dân quận-huyện xây dựng kế hoạch triển
khai việc xây dựng chương trình cải cách hành chính, kịp thời có những văn bản
chỉ đạo, phân công các ngành, các cấp tăng cường thực hiện công tác cải cách
hành chính theo từng ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước.
- Thành lập Ban Chỉ đạo Cải cách hành chính Thành phố (từ
năm 2002), bao gồm đại diện của các Sở ngành, lãnh đạo chính quyền Thành phố
nhằm tạo sự chỉ đạo, phối hợp xuyên suốt, thống nhất và đồng bộ.
- Sử dụng công cụ chỉ số cải cách hành chính như động lực
thúc đẩy cải cách hành chính ở các Sở ngành, quận huyện thông qua việc xếp
hạng, đánh giá. Thực hiện Quyết định số 1294/QĐ-BNV ngày 03 tháng 12 năm 2012
của Bộ Nội vụ về phê duyệt Đề án “Xác định chỉ số cải cách hành chính của các
bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố thuộc Trung ương”, Ủy
ban nhân dân Thành phố đã có kế hoạch triển khai xác định chỉ số cải cách hành
chính Thành phố theo từng năm. Thành Ủy ban nhân dân Thành phố đã thành lập Hội
đồng và Tổ thư ký đánh giá, xác định cải cách chỉ số hành chính của các
Sở-ngành, Ủy ban nhân dân quận-huyện trên địa bàn Thành phố và công bố chỉ số
này cho các năm.
- Hình thành các cơ chế kiểm tra, giám sát về công tác cải
cách hành chính, chủ yếu và nổi bật là hoạt động của các đoàn kiểm tra, giám
sát, khảo sát của Ủy ban nhân dân Thành phố và Hội đồng nhân dân.
- Thực hiện các khảo sát sự hài lòng của người dân và doanh
nghiệp đối với các dịch vụ hành chính và dịch vụ công.
- Các tuyên truyền về công tác cải cách hành chính với các
hình thức tương đối đa dạng và phong phú trên phương tiện thông tin đại chúng,
theo Cổng thông tin điện tử của các Sở ngành, quận/huyện, theo hệ thống đối
thoại với doanh nghiệp, chương trình “Lắng nghe và trao đổi”, phát hành các cẩm
nang cải cách hành chính đến tận xã, phường, thị trấn, tổ chức các hội thi cải
cách hành chính.
3-Thực trạng cải cách
thể chế
- Về cải cách thể chế. Hàng năm, Ủy
ban nhân dân Thành phố đều ban hành chương trình lập quy. Giai đoạn 2011-2015,
Thành phố ban hành Chương trình hoàn thiện và nâng cao hiệu quả công tác xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật với 04 Đề án về xây dựng quy định về trình tự,
thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật; về kiện toàn tổ chức pháp chế; về
tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ đội ngũ cán bộ, công chức pháp chế và cán bộ,
công chức kiểm soát thủ tục hành chính; về thực hiện công tác theo dõi tình
hình thi hành pháp luật. Công tác rà soát văn bản quy phạm pháp luật được đẩy
mạnh, thể hiện qua yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và thời gian thực hiện.
Trách nhiệm người đứng đầu cơ quan hành chính được đề cao, thể hiện qua tần
suất nói về chủ đề này ngày càng nhiều trong các cuộc họp và các văn bản chỉ
đạo, điều hành của các ngành, các cấp; việc thực hiện thư xin lỗi đối với
trường hợp giải quyết hồ sơ của cá nhân, tổ chức bị trễ hạn.
-Vể công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật
UBND TPHCM đã quyết định ban hành Quy chế về kiểm
tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) và tổ
chức, quản lý công tác viên kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL trên địa bàn
TP. Quy chế có hiệu lực kể từ ngày 20/1/2017.
Đã hoàn tất việc cập nhật toàn bộ văn bản quy
phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố ban hành từ
năm 1975 đến 2015, với 4.048 văn bản đã được số hóa và cập nhật trên Cơ sở dữ
liệu quốc gia và được tích hợp vào các trang thông tin điện tử của các cơ quan.
Bên cạnh đó, công tác rà soát, kiểm tra, xử lý văn bản quy
phạm pháp luật được thành phố quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện đầy
đủ và hoàn thành đảm bảo yêu cầu về chất lượng và thời gian thực hiện[1].
Tuy nhiên
ngày 22/6 /2017 Đoàn công tác của Bộ Tư pháp làm việc với UBND TP Hồ Chí
Minh về một số VBQPPL có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
Theo
báo cáo của UBND TP HCM, thời gian qua việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước
về công tác soạn thảo, ban hành, kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản
quy phạm pháp luật (VBQPPL) được TP HCM chú trọng, thực hiện tương đối tốt. Tuy
nhiên, bên cạnh những mặt đạt được thì vẫn còn rất nhiều hạn chế, bất cập, thậm
chí là yếu kém.
Qua
rà soát 728 VBQPPL của HĐND, UBND TP HCM còn hiệu lực thì phát hiện có 52
VBQPPL có dấu hiệu vi phạm. Trong đó việc vi phạm lớn nhất là các VB này không
được thẩm định, không được lấy ý kiến của đối tượng được điều chỉnh trước lúc
ban hành. Riêng Bộ Tư pháp qua rà soát gần 200 VBQPPL còn hiệu lực của HĐND và
UBND TP HCM thì phát hiện có 16 VB vi phạm về nội dung cần được bãi bỏ, chỉnh
sửa.
Đánh
giá tinh thần cầu thị, trách nhiệm của UBND TP, Thứ trưởng Phan Chí Hiếu nhấn
mạnh, là địa phương phát triển mạnh mẽ nhất cả nước nên đôi lúc TP có những
sáng tạo để theo kịp sự phát triển. Thời gian qua, TP đã có nhiều tiến bộ trong
công tác soạn thảo, ban hành, kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL.
Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại, hạn chế và cần sớm khắc phục.
Trước
đó, tại cuộc làm việc với Sở Tư pháp TP HCM, đại diện các Sở tham dự đã có
nhiều giải trình liên quan đến lý do tham mưu các văn bản trái luật. Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến việc tham mưu sai. Sai do đặc thù TP, như quy định về tiêu
chuẩn công chức phường, xã trên địa bàn TP HCM phải có hộ khẩu (mang tính kế
thừa từ nhiều chục năm nay), quy định về tuyển dụng công chức và xếp lương khi
bổ nhiệm ngạch (ưu tiên trình độ đại học)…
Có
những văn bản trái luật xuất phát từ tình hình thực tế như quy định về trợ cấp
giảng dạy đối với giáo viên dạy hòa nhập cho người khuyết tật (không trợ cấp
không thu hút được giáo viên). Ngoài ra, một số văn bản bị lạc hậu so với tình
hình thực tế, nhiều văn bản khác trái luật là do cán bộ pháp chế tại các đơn vị
tham mưu còn “non tay”… Hầu hết các sở, ngành tham mưu đều đồng ý về văn bản
trái luật và cho biết sẽ sớm xử lý các văn bản nói trên.
Theo
nhận định của Cục trưởng Đồng Ngọc Ba, những con số VBQPPL ban hành trái luật
nói trên là đã “vượt khung”, trong đó, khá nhiều sở, ngành có tình trạng “mua
dây buộc mình”, tham mưu cho UBND TP ban hành VBQPPL, trong khi văn bản ấy
thuộc thẩm quyền của HĐND TP. Thậm chí, ở TPHCM tồn tại một tình trạng mà ít
địa phương nào mắc phải, đó là “trốn” thẩm định (có 3 văn bản không qua Sở Tư
pháp thẩm định), không lấy ý kiến đối tượng thụ hưởng.
Có
thể, đó là “đường tắt” với thời gian sẽ nhanh hơn, nhưng hệ lụy của nó sẽ hết
sức lâu dài và nặng nề. Cục trưởng Đồng Ngọc Ba cho biết, những yếu kém, sai
phạm còn tồn tại nói trên cần có sự tham gia giải quyết quyết liệt của các cơ
quan liên quan. Trong đó, HĐND TPHCM cần xem lại việc giám sát, vì sao để tình
trạng các văn bản thuộc thẩm quyền của mình nhưng UB TP ban hành quá nhiều.
Cạnh đó, cần nghiêm khắc nhìn nhận cái sai và giải quyết từ gốc rễ.
Thiết
nghĩ không chỉ quan tâm đế chất lượng văn bản QPPL mà một nội dung không kém
phần quan trọng là hiểu và chấp hành các
văn bản QPPL cuả người dân và CBCC viên chức.Nội dung nầy ít được đề cập
trong các báo cáo tổng kết .Dù văn bản có chuẩn đến đâu nhưng vào thực tế bị
hiểu sai hoặc cố tình không hiểu làm sai của một bộ phận người dân và CBCC viên
chức thì cũng như không(!?)
- Về cải cách thủ tục hành chính.
Thành phố đã ban hành các kế hoạch trọng tâm triển khai các
nhiệm vụ cải cách TTHC, kiểm soát TTHC trên địa bàn. Thành phố đang hoàn thành
công tác chuẩn hóa TTHC. Đến nay, Thành phố đã ban hành 50 quyết định công bố
với 1.476 TTHC. Các TTHC được công bố chuẩn hóa đã được công khai kịp thời, đầy
đủ theo quy định.
Thành phố tiếp tục rà soát, cắt giảm và đơn giản hóa TTHC: giảm
số lượng, thời gian, thành phần hồ sơ, kinh phí thực hiện TTHC trong lĩnh vực
đầu tư - đăng ký kinh doanh. Cơ chế một cửa, một cửa liên thông tiếp tục được
các cơ quan, đơn vị đẩy mạnh thực hiện, tạo sự chuyển biến tích cực, hiệu quả
trong công tác giải quyết TTHC cho cá nhân, tổ chức theo hướng công khai, minh
bạch, thuận lợi. Số lượng, tỷ lệ các TTHC liên thông, liên thông điện tử trong
nội bộ cơ quan, giữa các cơ quan trong thành phố, giữa các cơ quan của thành
phố với cơ quan ngành dọc ngày càng tăng lên; số lượng cơ quan, đơn vị áp dụng
mô hình một cửa điện tử tiếp tục được mở rộng. Thành phố tiếp tục đẩy mạnh công
tác cải cách TTHC trong lĩnh vực xây dựng, đầu tư, đất đai.
Đối với công tác kiểm soát TTHC, trong năm
2017, Thành phố tiếp tục có nhiều nỗ lực và thực hiện có hiệu quả công tác kiểm
soát TTHC. Các nhiệm vụ kiểm soát TTHC được triển khai kịp thời, đầy đủ theo
quy định. Bên cạnh đó, Thành phố cũng đã chủ động triển khai các nhiệm vụ trọng
tâm đáp ứng yêu cầu cải cách TTHC tại Thành phố. Năm 2017, 45/50 sở-ngành,
quận-huyện đã ban hành kế hoạch triển khai nhiệm vụ kiểm soát TTHC tại đơn vị,
đạt tỉ lệ 90%; 42/50 sở-ngành, quận-huyện ban hành đầy đủ, kịp thời các kế
hoạch trọng tâm, triển khai các chỉ đạo của Thành phố về kiểm soát TTHC, đạt tỉ
lệ 84%.
Đấy là đánh gia chung thực trạng về cải cách
TTHC,tuy nhiên đi sau nghiên cứu khảo sát của các chỉ số do các tổ chức độc lập
cho thấy:
Về Thủ tục chứng thực, xác nhận
Theo nghiên cứu PAPI,Kết quả
khảo sát cho thấy, trong giai đoạn 2011 - 2016, dịch vụ chứng thực, xác nhận
của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú là dịch vụ được nhiều người dân sử dụng,
tỷ lệ luôn đạt trên 40%, riêng năm 2015 giảm xuống còn 33,18%. Việc người dân
Thành phố ngày càng ít sử dụng dịch vụ thể hiện yêu cầu về chứng thực, xác nhận
ngày càng giảm – một tín hiệu tốt của công tác cải cách hành chính. Tỷ lệ người
dân sử dụng dịch vụ người môi giới – “cò” trong các việc chứng thực, xác nhận
các loại giấy tờ rất ít và có xu hướng tiếp tục giảm, từ 4,15% trong năm 2011
giảm xuống chỉ còn 0,35% trong năm 2015 Xét về mức độ hài lòng của người dân
đối với đối với thủ tục chứng thực, xác nhận của địa phương, trong giai đoạn từ
2011 – 2015, trên 90% người dân sử dụng dịch nhìn chung đều hài lòng với dịch
vụ được cung cấp, xu hướng tăng dần đều qua các năm, từ 91,61% năm 2011 tăng
lên 96,67% năm 2015. Bởi lẽ, người dân cho rằng họ được hướng dẫn cụ thể về thủ
tục phải làm; mức phí phải nộp được niêm yết công
khai; đội ngũ nhân viên thạo việc, có thái độ lịch sự; thủ tục giấy tờ đơn
giản; không phải trả phí ngoài quy định (“lót tay”) mới được việc; được hẹn cụ
thể ngày nhận kết quả và nhận được kết quả đúng như lịch hẹn. Tất cả các tiêu
chí trên đều được ghi nhận với tỷ lệ trên 90%. Trong đó, đáng chú ý là nhận
định về việc người dân được hẹn ngày cụ thể tới trả kết quả và thái độ lịch sự
của đội ngũ nhân làm công tác chứng thực, xác nhận khi giao tiếp với người dân
có tốc độ tăng nhanh nhất, với mức tăng khoảng 4%. Các thủ tục, biểu mẫu, giấy
tờ liên quan đến dịch vụ chứng thực, xác nhận cũng ngày càng được đơn giản hóa.
Nếu như năm 2011 chỉ có 90,97% số người dân sử dụng dịch vụ đồng ý với nhận
định này thì đến năm 2015, tỷ lệ này tương ứng là 93,36% (tăng 2,39%). Duy chỉ
có 3 tiêu chí liên quan đến việc người dân được hướng dẫn cụ thể về thủ tục
phải làm, mức phí phải nộp được niêm yết công khai và không phải trả phí ngoài
quy định (“lót tay”) mới được việc có sự giảm nhẹ trong cả giai đoạn 2011 –
2015, tuy nhiên, con số này không có nhiều ý nghĩa, bởi số lượng người dân trả
lời đã từng sử dụng dịch vụ chứng thực, xác nhận của năm 2015 ít hơn của năm
2011 rất nhiều (58,29% năm 2011 so với 43,96% năm 2015).
Về Thủ tục cấp giấy phép xây dựng
Kết quả khảo sát của PAPI cho thấy tỷ lệ người dân có xây mới/sửa chữa nhà có xu
hướng giảm trong giai đoạn 2011 – 2015,
giảm từ 11,41% năm 2011 xuống còn 6,59% năm 2015, tuy nhiên, tỷ lệ người dân
xin giấy phép xây dựng lại có xu hướng tăng mạnh, từ 68,25% năm 2011 lên
94,74% năm 2015, tăng 26,49%. Điều này
đồng nghĩa với việc tỷ lệ người dân có xây mới/cải tạo lớn các công trình xây
dựng thuộc diện phải thực hiện thủ tục cấp giấy phép xây dựng nhưng không xin
giấy phép có xu hướng giảm mạnh. Năm 2016, 9,06% người dân trong mẫu khảo sát
có xây mới/sửa chữa nhà nhưng chỉ có 73,77% trong số đó có xin giấy phép xây
dựng – một tín hiệu tốt trong nỗ lực cải tiến quy trình thủ tục của thành phố.
Mặt khác, tỷ lệ người dân có sử dụng
người môi giới – “cò” khi làm thủ tục giấy phép xây dựng mặc dù luôn chiếm tỷ
lệ cao trên 10% (ngoại trừ năm 2012, con số này chỉ ở mức 6,52%), nhưng tính
chung trong cả giai đoạn 2011 – 2015, tỷ
lệ người dân có sử dụng dịch vụ môi giới – “cò” có xu hướng giảm, từ 17,07% năm
2011 xuống còn 11,76% năm 2015, và 5,13% năm 2016 – mức thấp nhất trong giai
đoạn 2011-2016
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, khi làm
thủ tục xin cấp giấy phép xây dựng, người dân Thành phố không chỉ phải sử dụng
cò môi giới để đạt được việc nhanh chóng mà, người dân còn phải đến nhiều cơ
quan khác nhau mới được việc. Gần 20% người dân sử dụng dịch vụ này năm 2015 và
13.5% năm 2016 khẳng định như vậy. Tính chung trong cả giai đoạn 2011- 2016, tỷ
lệ này có sự biến thiên không ổn định, nhìn chung tăng nhẹ. Giai đoạn từ 2011
đến 2013, thủ tục cấp giấy phép xây dựng được người dân đánh giá với nhiều
chuyển biến tích cực, tỷ lệ người dân cho biết mình phải đến nhiều cơ quan khác
nhau khi liên hệ thực hiện dịch vụ giảm mạnh, từ 19,05% năm 2011 xuống còn
5,88% năm 2013 (giảm 13,17%). Song, giai đoạn từ 2013 – 2016, tỷ lệ này tăng
lặp lại từ 5,88% năm 2013 lên này chiếm 19,35% năm 2015 (còn cao hơn cả mức
khởi điểm 19,05% của năm 2011), tuy giảm xuống 13,5% năm 2016 những vẫn trên
mức 10%. Sở dĩ thủ tục cấp giấy phép xây dựng vẫn chưa đi vào ổn định, người
dân vẫn còn gặp phải nhiều vướng mắc khi thực hiện thủ tục này vì trên thực tế
trong giai đoạn 2011 - 2016 này Thành phố Hồ Chí Minh vẫn chưa triển khai cấp
giấy phép xây dựng theo mô hình “một cửa liên thông”.
Xét về mức độ hài lòng của người dân
khi thực hiện thủ tục xin cấp giấy phép xây dựng, trong giai đoạn 2011 – 2015
ghi nhận sự giảm nhẹ về tỷ trọng, nếu như năm 2011 có 92,31% người dân nhìn
chung hài lòng về dịch vụ được cung cấp thì năm 2015, tỷ lệ này chỉ đạt 90,91%.
Hai tiêu chí cụ thể người dân chưa thực hài lòng là vẫn còn tình trạng phải trả
phí ngoài quy định (“lót tay”) mới được việc và không
được hẹn cụ thể ngày nhận kết quả. Số liệu thống kê thể hiện sự giảm nhẹ về tỷ
trọng ở 2 tiêu chí này. Còn lại, các tiêu chí khác như: được hướng dẫn
cụ thể về thủ tục phải làm; mức phí phải nộp được
niêm yết công khai; đội ngũ nhân viên thạo việc, có thái độ lịch sự; thủ tục
giấy tờ đơn giản; nhận được kết quả đúng như lịch hẹn đều cho thấy mức độ hài
lòng của người dân rất cao, chiếm trên 90% số người trả lời và có xu hướng tăng
trong cả giai đoạn, thậm chí có chỉ tiêu còn đạt mức 100% trong năm 2015 (tiêu
chí đội ngũ nhân viên thạo việc, có thái độ lịch sự và được nhận kết quả đúng
như lịch hẹn). Tuy nhiên, kết quả năm 2016 lại cho thấy một số tín hiệu xấu khi
giảm điểm trên hàng loạt chỉ tiêu (đặc biệt chỉ tiêu về "chi phí lót
tay") và mức độ hài lòng giảm mạnh từ trên 90% xuống 52%, nhưng điều này
cần thêm thời gian quan sát do thay đổi chỉ tiêu và cách tính ở năm 2016
-Về Thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất
Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
là thủ tục quan trọng, có nhiều ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người dân. Tuy
nhiên, kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ người dân có làm thủ tục liên quan đến
quyền sử dụng đất sau khi thực hiện các giao dịch mua, bán, sang tên và nhận
thừa kế đất đai có xu hướng giảm, từ 83,33% năm 2011 xuống còn 77,78% năm 2015
và 72,22% năm 2016.
So với hai thủ tục chứng thực/xác nhận
và xin giấy phép xây dựng, nhu cầu sử dụng người môi giới – “cò” để thực hiện
thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của người dân rất cao, và có xu
hướng tăng nhanh trong giai đoạn 2011 - 2014, luôn ở xấp xỉ mức 30%, đặc biệt
năm 2014 đạt mức 35,58%. Đến năm 2015-2016, tỷ lệ này có giảm nhưng vẫn còn khá
cao, chiếm hơn 20% tổng số người trả lời có thực hiện thủ tục. Tính chung trong
cả giai đoạn từ 2011 – 2015, tỷ trọng người dân sử dụng người môi giới – “cò”
để thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tăng mạnh, từ 10%
năm 2011 lên 25% năm 2015 (tăng 15%) (Xem Bảng 2.38, Phụ lục 2).
Tỷ lệ người dân phải đến nhiều cơ quan để thực
hiện thủ tục cấp giấy phép chứng nhận quyền sử dụng đất có xu hướng giảm dần
trong cả giai đoạn từ 2011 đến 2015. Nếu như năm 2011, tỷ lệ này là 27,59% thì
đến năm 2015, tỷ lệ này còn 14,29% (giảm 13,3%) nhưng lại tiếp tục tăng ở năm
2016 (22,22%).
Xét về thời gian trung bình để người
dân nhận được giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất sau khi đã nộp hồ sơ hoàn tất, theo trải nghiệm của chính người
dân, trong năm 2015, người dân trung bình phải mất hơn 80 ngày (hơn 2,5 tháng)
để nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. So với năm 2011, thời gian
trung bình để người dân nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi đã nộp hồ sơ hoàn tất tăng
gần gấp đôi, từ 49,24 ngày năm 2011 lên 80,75 ngày năm 2015 và 71,53 ngày năm
2016.
Vấn đề chi phí phải bỏ ra để thực hiện
thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng là điểm đáng chú ý trong thủ
tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Kết quả khảo sát PAPI cho thấy tổng
số tiền mỗi người dân phải bỏ ra để thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cũng khác nhau, có người chỉ chi 20.000 đồng, nhưng cũng có người
cho biết phải chi 100.000.000 đồng cho quá trình thực hiện thủ tục cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Tính chi phí trung bình mà người dân Thành phố
phải trả để thực hiện thủ tục này không ổn định trong giai đoạn 2011 – 2015,
nhưng nhìn chung có xu hướng tăng lên,
từ 1.654.375 đồng năm 2011 lên 2.714.286 đồng năm 2015 và 2.484.000 đồng năm 2015 .Xét về mức độ hài lòng của người dân khi thực hiện thủ
tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, kết quả khảo sát cho thấy người dân
Thành phố có những phản hồi tích cực. Tỷ trọng người dân nhìn chung hài lòng
với dịch vụ nhận được tăng trong cả giai đoạn 2011 – 2015, từ 84% năm 2011 lên
88% năm 2015 (tăng 4%). Tuy nhiên, ở tất cả các chỉ tiêu liên quan đến việc
được hướng dẫn cụ thể về thủ tục phải làm; mức phí
phải nộp được niêm yết công khai; đội ngũ nhân viên thạo việc, có thái độ lịch
sự; thủ tục giấy tờ đơn giản; nhận được kết quả đúng như lịch hẹn lại
cho thấy sự giảm nhẹ về tỷ trọng trong cả giai đoạn 2011 – 2015. Riêng chỉ tiêu
không phải trả phí ngoài quy định (“lót tay”) mới
được việc còn ghi nhận sự sụt giảm nhẹ về tỷ trọng so với năm 2014, giảm từ 90%
năm 2014 xuống còn 88% năm 2015. Năm 2015, tiêu chí tăng mạnh và đạt được sự
đồng tình tối đa 100% người dân tham gia khảo sát xác nhận được hẹn cụ thể ngày
nhận kết quả, tuy nhiên, cũng lại có đến 20% người không nhận được kết quả đúng
như lịch hẹn. Năm 2016, tỉ lệ hài lòng sụt mạnh với thang điểm mới, đồng thời
giảm về nội dung "nhận kết quả đúng như lịch hẹn" và "nhân viên
có thái độ lịch sự", thể hiện một số vấn đề mới phát sinh trong thủ tục
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại Thành phố (Xem Bảng 2.40, Phụ lục 2).
. Thủ tục hành chính cấp
xã/phường
Theo PAPI.thủ tục hành chính
thực hiện tại cấp xã/phường được khảo sát quan tâm gồm các thủ tục: thủ tục
đăng ký khai sinh; đăng ký khai tử; đăng ký kết hôn; đăng ký thay đổi, cải
chính, xác định lại dân tộc; đăng ký hộ khẩu thường trú; thủ tục xin cấp tiền
hỗ trợ sửa chữa nhà ở cho các đối tượng chính sách gặp khó khăn về nhà ở; thủ
tục giải quyết trợ cấp khó khăn đột xuất cho các đối tượng bảo trợ xã hội; thủ
tục giải quyết trợ cấp khó khăn thường xuyên cho các đối tượng bảo trợ xã hội;
thủ tục cấp phép cho mai táng; thủ tục xin xác nhận và trình hồ sơ vay vốn từ
quỹ quốc gia giải quyết việc làm.
Tình trạng người dân phải sử dụng dịch
vụ người môi giới – “cò” hay phải đến nhiều cơ quan khác nhau để hoàn thành thủ
tục chiếm tỷ trọng rất thấp, dưới 10% và đều có sự sụt giảm khá nhiều. Năm 2011
có 4,27% người dân sử dụng các thủ tục hành chính ở cấp xã/phường cho rằng có
sử dụng người môi giới – “cò” để được việc thì tới năm 2016, tỷ lệ này giảm còn
1,37%. Con số tương ứng ở chỉ tiêu người dân phải đi tới nhiều cơ quan khác
nhau là 6,9% năm 2011 và 3,5% năm 2015.
Xét về mức độ hài lòng của người dân
khi thực hiện các thủ tục hành chính cấp xã/phường, đại đa số người dân nhìn
chung đều hài lòng với dịch vụ được cung cấp, mức độ hài lòng rất cao và có xu
hướng tăng lên trong cả giai đoạn 2011 – 2015, đạt mức 98,09% trong năm 2015
Những tiến bộ trong công tác cải cách thủ tục hành chính cấp xã/phường của
chính quyền Thành phố đã được người dân ghi nhận với những phản hồi rất tích
cực. Hầu hết các tiêu chí đánh giá như:
được hướng dẫn cụ thể về thủ tục phải làm; mức phí
phải nộp được niêm yết công khai; đội ngũ nhân viên thạo việc, có thái độ lịch
sự; thủ tục giấy tờ đơn giản; được hẹn cụ thể ngày nhận kết quả nhận và được
kết quả đúng như lịch hẹn, không phải trả phí ngoài quy định (“lót tay”) mới
được việc đều được tăng lên về tỷ trọng trong cả giai đoạn, đạt mức trên 90%.
Duy chỉ có tiêu chí mức phí phải nộp được niêm yết công khai có dấu hiệu giảm
nhẹ về tỷ trọng, tuy nhiên, mức giảm không đáng kể, từ 96,08% năm 2011 xuống
còn 95,83% năm 2015.
Khai thác
Chỉ số PCI ( năng lực cạnh tranh cấp tỉnh,thành) với 5 chỉ tiêu thành phần sau cũng có thể cung
cấp thông tin về thực trạng TTHC của Thành phố qua các năm dựa treen cảm nhận
của doanh nghiệp dân doanh,như:
Chi phí gia nhập thị trường: Tăng cường năng lực cho bộ phận tiếp
nhận và trả kết quả, bộ phận dịch vụ công để hướng dẫn cụ thể, rõ ràng về thủ
tục hành chính, tránh tình trạng doanh nghiệp phải làm lại hồ sơ nhiều lần.
Chỉ số tiếp cận đất đai và sự ổn định
trong sử dụng đất: Thực hiện cải triến các quy trình giải quyết các thủ tục
hành chính về đất đai ở các cơ quan tỉnh, huyện, xã nhằm rút ngắn thời gian
giải quyết, giảm thủ tục hồ sơ, nhất là đối với các cơ quan.
Chỉ số tính minh bạch và tiếp cận thông
tin: Minh bạch quy trình tiếp nhận, xử lý và đơn giản hóa thủ
tục hành chính liên quan đến doanh nghiệp.
Chỉ số chi phí thời gian: Cải tiến các quy trình giải quyết các
thủ tục hành chính ở các cơ quan quản lý nhà nước.
Chỉ số chi phí không chính thức: Tăng cường tính công khai, minh bạch và
sự giám sát chặt chẽ trong cấp giấy phép, đấu thầu, mua sắm công để hạn chế
việc chi hoa hồng của các doanh nghiệp cho các cán bộ, công chức, viên chức.
Các năm :2013 2014
2015 2016
- Gia nhập thị
trường/Entry Costs :7,01 7,25 7,57 7,99
-Tiếp cận đất đai/Land Access & Tenure :6,43
5,04 5,18 5,45
-Tính minh
bạch/Transparency: 5,64 6,89 6,51 6,50
-Chi phí thời
gian/Time Costs :5,94 5,93 6,11 6,24
-Chi phí không chính
thức/Informal Charges :6,01 4,67 4,37 4,74
4- kiến nghị một số Giả pháp
4.1.Nâng cao chất lượng ban hành văn bản
QPPL
- Về nâng cao chất lượng thẩm định
Kiến nghị Trung ương:
Một là: Bộ Tư pháp
cần nghiên cứu để quy dịnh rõ hệ thống các tiêu chí đánh giá chất lượng một dự
thảo văn bản quy phạm pháp luật, các tiêu chí đánh giá chất lượng văn bản thẩm
định
Việc thiếu các tiêu
chí đánh giá như thế nào là một dự thảo văn bản quy phạm pháp luật đạt yêu cầu,
đã dẫn đến những cách hiểu thiếu chính xác, không thống nhất về các quy định
trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, cũng như rất khó đánh giá được một
cách khách quan về chất lượng văn bản thẩm định. Chính vì vậy, cần có quy định
về hệ thống các tiêu chí cụ thể đánh giá tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống
nhất, đồng bộ, tính khả thi của một dự thảo văn bản quy phạm pháp luật để làm
cơ sở đánh giá chất lượng về nội dung của một văn bản quy phạm pháp luật và
cũng là cơ sở để đánh giá chất lượng nội dung thẩm định.
Đồng thời cần khẳng
định giá trị pháp lý của văn bản thẩm định và trách nhiệm của các cơ quan trong
việc tiếp thu, phản hồi ý kiến thẩm định. Khẳng định rõ tính bắt buộc và giá
trị của văn bản thẩm định đối với cơ quan chủ trì soạn thảo và cơ quan có thẩm
quyền ban hành văn bản là HĐND, Uỷ ban nhân dân.
Điều này đã được
quy định về nguyên tắc tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND,
UBND song việc tuân thủ triệt để các nội dung về tình tự, thủ tục ban hành văn
bản quy phạm pháp luật .Báo cáo thẩm định phải được gửi cùng dự thảo văn bản
đến các thành viên UBND trước phiên họp, cơ quan chủ trì soạn thảo và cơ quan
thẩm định sẽ phải báo cáo trước tập thể UBND nếu có ý kiến khác nhau và UBND sẽ
xem xét, quyết định …
Hai là: Tăng cường
nâng cao năng lực cho cán bộ, công chức trực tiếp tham gia xây dựng, thẩm định
văn bản quy phạm pháp luật
Tập trung vào việc
tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện chức năng thẩm định
văn bản quy phạm pháp luật, là cơ quan thẩm định các dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật, đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, tính khả thi của
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của địa phương, các cơ quan tư pháp địa
phương cần được củng cố, tăng cường nhiều hơn nữa về nguồn nhân lực và vật lực,
trang bị những thông tin cần thiết để cập nhật, tiếp cận các chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đồng thời cần thường xuyên đào tạo,
bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức, đầu tư kinh phí
hoạt động, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc tổ chức thực hiện
nhiệm vụ được giao. Tập trung vào việc bổ sung kiến thức chuyên ngành, kiến
thức, kỹ năng quản lý nhà nước và xây dựng pháp luật. Đây là một điều kiện cần
thiết bảo đảm cho việc nâng cao chất lượng hoạt động quản lý, chất lượng công
tác thẩm định các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
Về cơ chế, chính
sách, đề nghị nghiên cứu, xem xét việc xác định chức danh “Thẩm
định viên văn bản” cho công chức trực tiếp thực hiện công tác
thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật ở các cấp.
Ba là: Tăng cường
vị trí, vai trò của người đứng đầu cơ quan tư pháp ở địa phương trong công tác
quản lý nhà nước về công tác xây dựng và thẩm định văn bản quy phạm pháp luật
Với nhiệm vụ quan
trọng là tham mưu, giúp UBND cùng cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp,
tính đồng bộ, tính thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cần
nghiên cứu, bổ sung, xác định người đứng đầu cơ quan tư pháp ở địa
phương là thành viên UBND cùng cấp để giúp UBND tăng cường hơn
nữa chất lượng công tác quản lý nhà nước về công tác xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật cũng như chất lượng của từng văn bản quy phạm pháp luật do UBND ban
hành hoặc trình HĐND cùng cấp thông qua, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính
đồng bộ, tính thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương.
Bốn là: Tăng cường
cơ chế cung cấp, chia sẻ thông tin trong công tác xây dựng và thẩm định văn bản
quy phạm pháp luật
Xác định rõ trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc cung cấp, chia sẻ các thông tin cần
thiết cho việc xây dựng và thẩm định văn bản quy phạm pháp luật. Xây dựng cơ sở
dữ liệu pháp luật có khả năng truy cập nhanh phục vụ cho việc tra cứu, tìm hiểu
các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, các văn bản quy phạm hết hiệu lực,
những dự thảo văn bản quy phạm pháp luật và các ý kiến khác nhau, những số
liệu, báo cáo, đánh giá, thống kê, bài viết bình luận, đánh giá liên quan đến
các quy định trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương.
Thứ năm, cần
có chính sách thu hút đội ngũ luật sư, luật gia và người có trình độ trong việc
tham gia vào hoạt động ban hành và thẩm định VBQPPL ở trung ương và địa phương.
Thứ sáu, cần có cách làm cụ thể để tăng cường mạnh mẽ sự phản hồi từ phía người sử dụng văn bản, tạo điều kiện để người dân thể hiện nguyện vọng của mình và cơ quan có liên quan phải có trách nhiệm giải trình cụ thể. Điều này sẽ làm cho cơ quan ban hành văn bản chịu trách nhiệm thực tế hơn trong công việc của mình trước nhân dân.
Thứ bảy, phải thay đổi cơ chế thẩm định và giám sát việc ban hành văn bản. Để có hiệu quả thì việc giám sát phải có tính độc lập và công khai; tổ chức giám sát có đủ quyền hạn trong công việc, được hỗ trợ về cơ chế, ngân sách và các điều kiện cần thiết để hoạt động. Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế thẩm định nội bộ nhằm góp phần hạn chế các sai lầm của văn bản được ban hành.
Thứ sáu, cần có cách làm cụ thể để tăng cường mạnh mẽ sự phản hồi từ phía người sử dụng văn bản, tạo điều kiện để người dân thể hiện nguyện vọng của mình và cơ quan có liên quan phải có trách nhiệm giải trình cụ thể. Điều này sẽ làm cho cơ quan ban hành văn bản chịu trách nhiệm thực tế hơn trong công việc của mình trước nhân dân.
Thứ bảy, phải thay đổi cơ chế thẩm định và giám sát việc ban hành văn bản. Để có hiệu quả thì việc giám sát phải có tính độc lập và công khai; tổ chức giám sát có đủ quyền hạn trong công việc, được hỗ trợ về cơ chế, ngân sách và các điều kiện cần thiết để hoạt động. Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế thẩm định nội bộ nhằm góp phần hạn chế các sai lầm của văn bản được ban hành.
Đển tâng cao chất lượng ban hành văn bản QPPL
Một là, thực hiện đúng các quy định của pháp
luật về ban hành văn bản. Phải kịp thời xử lý những cơ quan, cá nhân liên quan
đến việc ban hành văn bản trái pháp luật. Cần có cơ chế rõ ràng khi ban hành
văn bản, chỉ rõ biện pháp xử lý sai lầm, chỉ rõ trách nhiệm thuộc về ai nếu có
sai lầm và phải có phản hồi cụ thể.
Hai là, đổi mới quy trình xây dựng luật và nâng
cao chất lượng các đạo luật được ban hành. Luật xây dựng thiếu cụ thể thì chưa
ban hành, không nên lấy số lượng luật được ban hành làm thành tích trong quản
lý nhà nước. Vấn đề cốt lõi là làm thế nào để luật đi vào cuộc sống. Nhận thức
về xây dựng văn bản trong cơ chế thị trường cần có những thay đổi cho phù hợp.
Cùng với các tư tưởng được phản ánh đúng đắn trong văn bản, phải có cách làm
hợp lý, tránh việc ban hành văn bản luật với các quy định chung chung mà không
kịp thời có hướng dẫn cụ thể.
Ba là, loại bỏ các lực cản trong việc sửa chữa
sai lầm khi ban hành văn bản, không để lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm chi phối
việc ban hành và điều chỉnh văn bản. Nếu không có các biện pháp cần thiết và đủ
mạnh để loại bỏ nguyên nhân này thì sẽ rất khó khăn trong việc làm chuyển biến
tình trạng ban hành văn bản hướng dẫn trái với luật hoặc thiếu tính khả thi
trong thực tiễn.
Bốn là, cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp
vụ soạn thảo văn bản cũng như nâng cao tinh thần trách nhiệm cho đội ngũ cán
bộ, công chức trước công việc. Hiện nay, có nhiều chương trình bồi dưỡng về
lĩnh vực này, nhưng do nặng về lý thuyết nên thiếu tính thực tế, hiệu quả thấp.
Chương trình bồi dưỡng về xây dựng văn bản không thể chỉ đặt ra với các cơ quan
xây dựng luật, trường dạy luật, mà cần mở rộng hơn để phổ biến kiến thức này
cho nhiều người. Đó là cơ sở để phát hiện các sai trái trong văn bản; những
người có trách nhiệm soạn thảo văn bản và giám sát công việc này cần được bồi
dưỡng thường xuyên để tránh các sai lầm không đáng có.
Năm là, cần có cách làm cụ thể để tăng cường
mạnh mẽ sự phản hồi từ phía người sử dụng văn bản, tạo điều kiện để người dân
thể hiện nguyện vọng của mình và cơ quan có liên quan phải có trách nhiệm giải
trình cụ thể. Điều này sẽ làm cho cơ quan ban hành văn bản chịu trách nhiệm
thực tế hơn trong công việc của mình trước nhân dân.
4.2.Một số đề xuất về các giải pháp tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân trong thực hiện thủ tục hành chính
Việc cải cách TTHC ở TP Hồ
Chí Minh phải xác định lấy người dân, DN làm trung tâm để hoàn thiện các dịch
vụ hành chính công theo hướng công khai, minh bạch, hiệu quả và tiện lợi. Một số các giải
pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong thực hiện thủ tục hành chính,
gồm:
1./ Kết nối, liên thông về thông tin giữa các sở ngành, quận
huyện, giữa Thành phố với các cơ quan ngành dọc, giữa Thành phố với các bộ
ngành Trung ương
Cơ sở quan trọng nhất của cải cách thủ tục hành chính là sự tích
hợp, kết nối, liên thông giữa các cấp chính quyền, giữa các cơ quan quản lý nhà
nước. Thông tin là cốt lõi của vấn đề, thông tin có đủ, có phù hợp. Hiện tại,
kết nối, tích hợp thông tin giữa các cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn
Thành phố đã và đang thực hiện rất tốt, nhưng vẫn cần nhiều thời gian để hoàn
thiện.
Thông tin là điểm cốt lõi của các thể chế quản lý. Tuy
nhiên, hệ thống thông tin đo lường các mặt phát triển của Thành phố còn nhiều
hạn chế.Hệ thống thông tin liên thông giữa các ngành, các cấp vẫn còn nhiều
thiếu sót .Các quy chế chia sẻ và khai thác thông tin định hình khá mờ nhạt.
Thông tin của các cơ quan ngành dọc cũng đi theo các đặc thù riêng và yêu cầu
quản lý ngành của mình, tính kết nối, tích hợp chưa cao. Hệ thống quản lý được
thiết kế trên những hạn chế về thông tin tất yếu sẽ bù đắp bằng thủ tục. Ngoài
ra, các cơ sở dữ liệu thông tin quản lý buộc phải tập trung đầu mối và theo
những chuẩn thiết kế của Trung ương trong khi Thành phố lại có những đặc thù và
những yêu cầu riêng…, từ đó đẩy gánh nặng khớp nối về cho đối tượng thụ hưởng
là người dân và doanh nghiệp.
2./ Sắp xếp, kiện
toàn lại bộ máy tổ chức chính quyền, xử lý tốt bài toán phân cấp
Các thủ tục hành chính thực chất là tương tác giữa người
dân, doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước, một bên trong phạm vi thẩm
quyền của mình thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm phục vụ khách
hàng, một bên với nhu cầu thực tế, với các quyền và nghĩa vụ được ghi nhận của
mình tìm kiếm sự phục vụ. Bộ máy, cơ cấu tổ chức được thiết kế tốt, thật sự
hướng tới đối tượng phục vụ là người dân và doanh nghiệp, tự thân sẽ giảm bớt
các gánh nặng của thủ tục hành chính. Vấn đề là sự khác biệt giữa thiết kế
hướng đến sự phục vụ và thiết kế hướng đến sự đồng bộ theo khuôn mẫu hành chính.
Các vấn đề quản lý đô thị vốn đa diện, phức tạp, đòi hỏi cơ
chế phối hợp giải quyết nhanh, hiệu quả. Chủ trương rà soát, sắp xếp theo hướng
quản lý đa ngành, đa lĩnh vực để triển khai hiệu quả, đòi hỏi có sự phân quyền,
phân cấp mạnh cho chính quyền Thành phố, không bị lệ thuộc vào các khuôn mẫu
chung đồng dạng cho các Sở ngành. Với thẩm quyền đầy đủ, việc thay đổi hoặc áp
dụng các mô thức quản lý mới có thể thực hiện được. Thành phố sẽ tổ chức lại
các sở - ngành phù hợp với nhu cầu quản lý và theo nguyên tắc tăng cường trách
nhiệm quản lý nhà nước về lĩnh vực phụ trách trên địa bàn, khắc phục tình trạng
đùn đẩy việc giải quyết các vấn đề cụ thể lên Ủy ban nhân dân Thành phố. Việc
thực hiện nguyên tắc quản lý đa ngành, đa lĩnh vực hiện nay thực tế là theo các
khuôn mẫu của Trung ương, nhiều điểm không phù hợp với đặc thù của Thành phố.
Một số lĩnh vực cần những định chế quản lý chuyên ngành, cần sự chuyên nghiệp
và tập trung nguồn lực, đặc biệt trong
lĩnh vực hạ tầng đô thị lại gặp vướng mắc về khuôn khổ pháp lý tạo lập cơ chế
tổ chức và hoạt động. Một số nội dung khác lại phân tán ở nhiều ngành, nhiều
cấp, dễ tạo trở ngại cho việc thực thi các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp cho
quá trình phát triển-vốn luôn đòi hỏi cách tiếp cận đa chiều và đồng bộ.
3./ Tăng cường đầu tư cho cho các cổng thông tin điện tử có
tích hợp thông tin, hướng dẫn về thủ tục hành chính và hỗ trợ sự tiếp cận của
người dân
Phân tích từ số liệu khảo sát 2016 trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh cho thấy tỉ lệ người dân lên các trang mạng (cổng thông tin điện tử
của chính quyền Thành phố) để tìm hiểu thông tin về thủ tục cần làm còn ở mức
hạn chế, trong thực trạng chung của cả nước. Đối với những đối tượng đã từng
lên mạng tìm hiểu thông tin thì tỉ lệ cho rằng được hướng dẫn đủ về thông tin
và có biểu mẫu cần thiết tuy cao nhưng vẫn còn nhiều dư địa để cải thiện. Chúng
tôi cho rằng cần đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, hướng dẫn người dân
sử dụng các tiện ích của mạng Internet khi tiếp cận với các thủ tục hành chính.
4./ Phát triển các công cụ đo lường sự hài lòng của người
dân
Qua khảo sát tại một số đơn vị, nhận thấy việc khảo sát sự
hài lòng của người dân và doanh nghiệp còn chưa thật sự hiệu quả. Số lượng
người dân tham gia đánh giá còn quá ít, chưa đủ để kết luận về hiệu quả thực sự
của công tác cải cách hành chính cũng như quan hệ phục vụ-được phục vụ của
người dân/doanh nghiệp và các cơ quan công quyền.
Phân tích kết quả sự hài lòng của người dân Thành phố về thủ
tục hành chính (giới hạn ở các thủ tục liên quan đến dịch vụ chứng thực, xác
nhận; thủ tục xin cấp phép xây dựng; thủ tục liên quan đến cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất; thủ tục hành chính ở cấp xã, phường) tỉ lệ hài lòng nói
chung đối với các loại dịch vụ còn cần phải cải thiện nhiều.
Phân tích từ các dữ liệu khảo sát cho thấy hai yếu tố quan
trọng nhất quyết định sự hài lòng của khách hàng đối với dịch vụ là đội ngũ
nhân viên lịch sự, tôn trọng và sự đúng hẹn..
Trong thời gian tới, Thành phố nên thống nhất, rà soát các
loại công cụ, phương pháp đánh giá, xác lập lại mục đích sử dụng để có chiến
lược khai thác phù hợp. có giải pháp đồng bộ nâng
cao các chỉ số về nâng cao năng lực cạnh tranh (PCI), chỉ số hiệu quả quản trị
và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) và chỉ số cải cách hành chính (PAR index) để
nâng cao năng lực quản lý của bộ máy chính quyền.
4.3.Tp.HCM xúc tiến
xây dựng thành phố thông minh là giải pháp hiệu quả nhất để hoàn thiện nền
hành chính
5 mục tiêu của đô thị thông minh gồm: hiệu quả kinh
tế ở các đô thị ngày càng cao; môi trường sống ngày càng tốt hơn; người dân
được phục vụ tốt hơn; người dân tham gia quản lý đô thị và giám sát chính
quyền; thành phố phát triển bền vững.
Sự cần thiết phát
xây dựng triển Thành phố thông minh vì trong thực tế đòi hỏi hiện nay ,quá trình
ra quyết định quản lý ngày càng phức tạp hơn và đòi hỏi hiệu quả hơn, trong đó
tiếp nhận khối lượng thông tin rất lớn về môi trường và đối tượng tác động của
quyết định; dự báo dài hạn hơn, toàn diện hơn, độ chính xác cao hơn; tìm ra
phương án tối ưu trong thời gian tương đối ngắn; chuyển xử lý tình huống sang
dự báo dài hạn, tổng hợp và quản lý để không xảy ra tình huống xấu và hiệu quả
sử dụng các nguồn lực ngày càng cao hơn; các công cụ kỹ thuật, công nghệ thông
tin - truyền thông và toán học mới hiệu quả hơn, rẻ hơn.
Với số dân sinh sống tại Thành phố khoảng 13 triệu người như hiện nay, cần nhanh chóng triển khai xây dựng thành phố thông minh, ứng dụng công nghệ thông tin vào giải quyết, đáp ứng nhu cầu người dân.
Với số dân sinh sống tại Thành phố khoảng 13 triệu người như hiện nay, cần nhanh chóng triển khai xây dựng thành phố thông minh, ứng dụng công nghệ thông tin vào giải quyết, đáp ứng nhu cầu người dân.
Muốn triển khai xây dựng thành phố thông minh trước hết phải xây dựng cơ
sở hạ tầng khá hoàn thiện, đặt biệt là hạ tầng CNTT với mức độ sẵn sàng cho
phát triển và ứng dụng CNTT & Truyền thông cao. Tất cả các ngành, phải quán triệt định hướng nâng tầm ứng dụng CNTT – Truyền thông vào các lĩnh
vực của đời sống như: môi trường, xây dựng, giao thông, thông tin, y
tế, giáo dục, văn hóa, năng lượng, nông nghiệp; thương mại, du
lịch …mọi lĩnh vực đời sông đặc biệt
nhất là quản lý hành chính và quản trị xã hội.Phải có Công chức thông
minh. Tuy nhiên có công chức thông minh
chưa đủ phải Quy hoạch thành phố thông minh phát triển bền vững , Quản lý ngành
thông minh - Công dân thông minh - Doanh nghiệp thông minh.
Thành
phố thông minh sẽ đồng hành với một nền hành chính hoàn hảo.
Nhiệm vụ của CCHC trong
thời gian này là tập trung vào các việc như: cải cách thể chế; cải cách thủ tục
hành chính; cải cách tổ chức bộ máy ; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ công chức , viên chức; cải cách tài chính công và đặc biệt là hiện đại
hóa nền hành chính. Như vậy xây dựng Thành phố thông minh sẽ tác động ,có thể
tham gia vào tất cả các nhiệm vụ của CCHC;
Thành phố thông minh tạo thuận lợi đơn giản hóa và công khai thủ tục hành chính cải cách có hiệu quả thủ tục hành chính . Thành phố thông minh đòi hỏi chính quyền phải thực hiện công khai niêm yết các bộ thủ tục hành chính trên các cổng thông tin điện tử,trang Web của các Sở ,ban ngành, tạo điều kiện để người dân, doanh nghiệp dễ tiếp cận, tra cứu, thực hiện. Cung cấp 100% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4.Thực hiện ô hình “một cửa hiện đại” thực hiện cải cách hành chính được thông suốt , nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính công, góp phần nâng cao tính minh bạch, công khai trong việc tiếp nhận và giải quyết hồ sơ cho công dân, tổ chứcvà các doanh nghiệp trong quá trình đến giao dịch được thuận tiện. đi vào hoạt động không chỉ giúp tập trung công việc về một đầu mối, mà người dân chỉ cần đến một địa chỉ sẽ được phục vụ theo phương châm “4 công khai”- đó là công khai về thủ tục, thời gian, lệ phí và người thực hiện.Với mô hình nầy vận hành qua đó bảo đảm được sự lãnh đạo của UBND thành phố với các Sở ,ngành phòng ban, đồng thời theo dõi và kiểm soát được tiến độ giải quyết công việc và cách thức thực hiện của từng bộ phận.
Thành phố thông minh tạo thuận lợi đơn giản hóa và công khai thủ tục hành chính cải cách có hiệu quả thủ tục hành chính . Thành phố thông minh đòi hỏi chính quyền phải thực hiện công khai niêm yết các bộ thủ tục hành chính trên các cổng thông tin điện tử,trang Web của các Sở ,ban ngành, tạo điều kiện để người dân, doanh nghiệp dễ tiếp cận, tra cứu, thực hiện. Cung cấp 100% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4.Thực hiện ô hình “một cửa hiện đại” thực hiện cải cách hành chính được thông suốt , nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính công, góp phần nâng cao tính minh bạch, công khai trong việc tiếp nhận và giải quyết hồ sơ cho công dân, tổ chứcvà các doanh nghiệp trong quá trình đến giao dịch được thuận tiện. đi vào hoạt động không chỉ giúp tập trung công việc về một đầu mối, mà người dân chỉ cần đến một địa chỉ sẽ được phục vụ theo phương châm “4 công khai”- đó là công khai về thủ tục, thời gian, lệ phí và người thực hiện.Với mô hình nầy vận hành qua đó bảo đảm được sự lãnh đạo của UBND thành phố với các Sở ,ngành phòng ban, đồng thời theo dõi và kiểm soát được tiến độ giải quyết công việc và cách thức thực hiện của từng bộ phận.
Xây dựng và phải có đội ngũ cán bộ công chức xứng tầm, thực hiện tốt tinh giản biên chế.
Thành
phố thông minh vận hành đòi hỏi trước
hết là cải cách toàn diện về bộ máy hành chính, bộ máy phải tổ chức khoa học
với mô hình tối ưu,xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ công chức đảm bảo về số
lượng, chất lượng có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nêu cao tinh thần trách
nhiệm và thái độ phục vụ nhân dân. Năng lực của công chức –
viên chức, của các chuyên viên,phải có bước thay đổi rõ rệt và dứt khoát phải
được nâng cao hơn để thích nghi với một quy trình làm việc và trao đổi thông
tin, chia sẻ các ý tưởng .Kiến thức chuyên môn, chuyên ngành phải cao được đào tạo đầy đủ , các kỹ năng (công
nghệ thông tin và truyền thông) để thao tác thành thạo chuyên nghiệp trên hệ
thống.Công chức đó dược gọi là công chức thông minh.Công nghệ đương nhiên sẽ góp phần đắt lự tinh giảm biên chế. Như thành phố Ngân Xuyên của Trung Quốc quá trình xây dựng
Thành phố thông minh đã giảm lượng nhân viên cấp phép từ 600 xuống còn
50 người nhờ triển khai làm thủ tục qua mạng cho người dân thành phố cho bất cứ
điều gì, từ xin giấy phép xây dựng nhà cho đến giấy phép lái xe.
Hiệu
quả từ việc ứng dụng công nghệ vào thủ tục cấp phép của Ngân Xuyên có thể dễ
dàng đo đếm,
Thay đổi lề lối làm
việc, các
thủ tục hành chính liên quan tới cá nhân, tổ chức được cải cách cơ bản theo
hướng gọn nhẹ, đơn giản; tất cả các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa
các cơ quan hành chính nhà nước được
thực hiện trên mạng điện tử; bằng cách đẩy mạnh thực hiện trao đổi văn bản giữa
các cơ quan hành chính nhà nước dưới dạng thư
điện tử, giúp giảm bớt thời gian giải quyết các thủ tục; hay giảm hợp
hành,nêu nhất thiết hợp thì hợp trực
tuyến.
Triển khai quy trình giải quyết thủ tục hành chính liên thông giữa Ủy ban nhân
dân quận, huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã trên
mọi lĩnh vực .Sẽ đăng ký hộ tịch, đăng ký kinh doanh và đăng ký mã số
thuế và các loại đăng ký của người dân
với chính quyền 24/7 tại Ủy ban nhân dân
quận, huyện,xã phường.
-Thay đổi
thái độ phục vụ của chính quyền,tạo sự gần gũi thân thiện giữa chính
quyền với dân.tạo nên một xã hội dân chủ đích thực.
Lúc
nầy chính
quyền các cấp phải nâng cao năng lực quản lý, điều hành, làm cho nội dung công
tác quản lý nhà nước ngày càng minh bạch hơn, người dân dễ tiếp cận với thông
tin và tri thức. Vì Thành phố thông minh
là nhằm đến tính hiệu quả, chất lượng trong cách thức hoạt động, điều
hành của bộ máy HCNN; là làm cho bộ máy chuyển từ chức năng "chèo
thuyền" sang "lái thuyền", chuyển từ hành chính “cai
trị”,"xin-cho" sang hành chính
"phục vụ”; và làm cho nền hành chính có khả năng kiểm soát lãng phí, thất
thoát và tham nhũng,góp phần tạo ra một bộ mặt thân thiện ,gần gũi của chính
quyền với dân.Như vậy dù muốn hay không chính quyền sẽ sát dân hơn ,lắng nghe
tiếng nói nhiều chiều trong dân,tâm tư nguyện vọng ,bức xúc của dân,có cơ hội
,phương tiện nâng cao trách nhiệm giải trình.Đồng thời dân dể giám sát nhất cử
nhất động của chính quyền ,góp ý chính quyền… đó là một xã hội dân chủ đích
thực vì dân được “mở miệng” bất cứ khi nào,trước bất cứ chuyện gì .
Cuối cùng người dân được gì –là
đích của chính quyền
Thành phố thông minh tạo ra trong thành
phố một không gian sống mở, lập trình được, dựa trên mạng viễn thông tốc độ cao
và các phần mềm cùng phần cứng mới nhất. Nó cho thấy thành phố thông minh không
đơn thuần chỉ là tiết kiệm tiền bạc, mà có thể là nơi hấp dẫn và sống vui vẻ. Ở
một số quốc gia tiến hành xây dựng Thành phó thông minh họ dùng thiết bị cảm
ứng để đo mức độ hạnh phúc của dân cư.Ý tưởng đằng sau đồng hồ đo hạnh phúc là nếu chính quyền thành
phố thu thập được nhiều dữ liệu về những mong muốn của người dân đối với môi
trường sống thì sẽ có thể quan tâm tới cộng đồng tốt hơn../.
No comments:
Post a Comment