Gánh nặng trích lập dự phòng trong năm 2015
Tính đến thời điểm hiện tại đã có trên dưới 10 ngân hàng công bố kết quả kinh doanh năm 2015 với bức tranh lợi nhuận nhìn chung là khả quan và có sự khởi sắc hơn so với năm 2014. Tuy nhiên, sự phân hóa vẫn là đặc điểm nổi bật khi đọc các báo cáo này. Với ưu thế vượt trội về quy mô vốn và thị phần, nhóm bốn ngân hàng gốc quốc doanh vẫn dẫn đầu hệ thống và bỏ xa các ngân hàng thương mại cổ phần khác về lợi nhuận. Cụ thể, VietinBank lãi hợp nhất trước thuế 7.360 tỉ đồng, cao nhất trong hệ thống. Tiếp đến là BIDV và Vietcombank với lần lượt 7.036 tỉ đồng và 6.829 tỉ đồng. Trong khối cổ phần, MBB tiếp tục khẳng định vị thế khi dẫn đầu với 3.220 tỉ đồng, theo sau là Techcombank, VP Bank với 2.037 tỉ đồng và 1.800 tỉ đồng. Nhóm các ngân hàng có quy mô nhỏ hơn như VIB, TP Bank, Kienlongbank cũng ghi nhận hoạt động khả quan với mức lãi từ 200-800 tỉ đồng.
Mặc dù vậy, cũng có hiện tượng đáng chú ý là một số ngân hàng thương mại cổ phần tầm trung, vốn có vị thế khá tốt trong hệ thống lại bất ngờ công bố kết quả kinh doanh kém tích cực trong năm 2015 do trích lập dự phòng rủi ro tăng đột biến, đặc biệt riêng trong quí 4, điển hình là hai trường hợp Eximbank và Sacombank.
Eximbank báo lỗ 588 tỉ đồng trong quí 4-2015 do trích lập dự phòng 935 tỉ đồng. Trong hai năm trở lại đây, khoản dự phòng rủi ro của Eximbank trong quí cuối cùng của năm đều tăng đột biến (quí 4-2014 dự phòng rủi ro của Eximbank là 869 tỉ đồng, gấp 5 lần mức cùng kỳ 2013, khiến ngân hàng lỗ tới 678 tỉ đồng trong quí này). Lũy kế cả năm 2015, Eximbank chỉ ghi nhận lãi trước thuế 89 tỉ đồng và lỗ sau thuế 26 tỉ đồng.
Sacombank cũng bị lỗ trong quí 4-2015 do dự phòng rủi ro tăng vọt, từ mức 187 tỉ đồng cùng kỳ năm 2014 lên tới 1.125 tỉ đồng. Lũy kế cả năm trích lập dự phòng cũng tăng gấp hơn 2 lần khiến cho lợi nhuận của ngân hàng bị ảnh hưởng nghiêm trọng: lỗ trước thuế 738 tỉ đồng và lỗ sau thuế 583 tỉ đồng riêng trong quí 4.
Ngay cả với các ngân hàng lớn, chi phí trích lập dự phòng rủi ro cũng đã ảnh hưởng đáng kể, khiến mức lãi không được “hoành tráng”. Vietcombank trích lập dự phòng rủi ro tăng 21,5% so với năm 2014, đạt 8.609 tỉ đồng trong khi BIDV phải trích lập 5.802 tỉ đồng.
Năm 2016: áp lực nợ xấu lên lợi nhuận vẫn lớn
Về cơ bản, với các giải pháp quyết liệt trong vòng hơn hai năm qua, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng đã giảm đáng kể, từ mức đỉnh 4,08% năm 2012 (số liệu do Ngân hàng Nhà nước - NHNN công bố) đã giảm xuống chỉ còn 2,72% vào thời điểm cuối tháng 11-2015 (tương đương khoảng 120.000 tỉ đồng). Nợ xấu được xử lý chủ yếu qua ba giải pháp chính. Thứ nhất là bán nợ cho Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam - VAMC (tính đến hết năm 2015 VAMC đã phát hành được 243.000 tỉ đồng trái phiếu đặc biệt, trong đó riêng trong năm 2015 là 110.000 tỉ đồng). Xử lý nợ qua VAMC tính đến nay vẫn đang là giải pháp chiếm tỷ trọng lớn nhất (khoảng 45% nợ xấu), trong đó tỷ lệ này ở nhóm ngân hàng chưa niêm yết lên tới 48% trong khi nhóm ngân hàng niêm yết ít phụ thuộc vào kênh VAMC hơn - chiếm 37%. Hai giải pháp còn lại là sử dụng nguồn trích lập dự phòng của chính các ngân hàng (chiếm 28% nợ xấu đã được xử lý, trong đó nhóm ngân hàng niêm yết khá tích cực xử lý qua kênh này với tỷ lệ 41%) và thu siết nợ (chiếm 27%).
Mặc dù đã đạt được những thành quả nhất định nhưng với 243.000 tỉ đồng nợ xấu gần như vẫn đang “đóng băng” tại VAMC (mới thu hồi được gần 23.000 tỉ đồng, tương đương 9,3% tính trên dư nợ gốc) thì áp lực phải tiếp tục trích lập dự phòng rủi ro cho trái phiếu đặc biệt của VAMC đối với các ngân hàng vẫn rất lớn. Giả định không có thêm khoản nợ xấu nào được bán cho VAMC trong năm 2016 thì chi phí dự phòng cho khoản trái phiếu VAMC đã mua của toàn hệ thống năm nay ước tính sẽ khoảng 45.000 tỉ đồng.
Mới đây, trong một động thái nhằm giảm áp lực tài chính do phải trích lập dự phòng cho trái phiếu VAMC, NHNN đã ban hành dự thảo sửa đổi Thông tư 19 với điểm nhấn quan trọng là cho phép gia hạn thời hạn trái phiếu VAMC từ năm năm lên 10 năm đối với các tổ chức tín dụng đang thuộc diện tái cơ cấu hoặc gặp khó khăn về tài chính. Nếu thông tư này sớm được ban hành, chi phí trích lập dự phòng có thể giảm đáng kể đối với một số ngân hàng.
Ngoài ra, một điểm khác cũng rất đáng chú ý là tỷ lệ nợ xấu mặc dù giảm nhưng quy mô nợ xấu (số tuyệt đối) đang có xu hướng tăng khá mạnh trở lại. Tăng trưởng tín dụng ở mức cao (18% trong năm 2015) đã phần nào giúp kéo tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ giảm xuống. Thống kê cho thấy, trong chín tháng đầu năm 2015, nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5) của nhiều ngân hàng tiếp tục tăng đột biến. Nợ nhóm 5 của tất cả các ngân hàng tăng 24,1% so với cuối năm ngoái, lên tới 19.662 tỉ đồng, chiếm hơn một nửa tổng số nợ xấu. Trong khi đó, nợ dưới tiêu chuẩn (nợ nhóm 3) cũng có chiều hướng gia tăng, đạt 9.334 tỉ đồng, tăng 12% so với cuối năm 2014. Nợ quá hạn tăng nhanh sẽ tiềm ẩn rủi ro khiến tỷ lệ nợ xấu tăng trở lại trong tương lai.
Linh Trang
|
Tuesday, March 8, 2016
Chưa thể dứt gánh nặng từ nợ xấu!
Thời báo Kinh tế Sài Gòn, ngày 05/03/2016, http://www.thesaigontimes.vn/143003/Chua-the-dut-ganh-nang-tu-no-xau.html, Tỷ lệ nợ xấu giảm nhưng quy mô nợ xấu toàn ngành ngân hàng đang có xu hướng tăng nhanh trở lại. Ngoài ra, áp lực trích lập dự phòng cho trái phiếu VAMC sẽ tiếp tục gây áp lực không nhỏ lên lợi nhuận của các ngân hàng trong năm 2016.
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment