TS. Lê Huy Y, các KS: Lê Trung Chính, Lê Trung
Kiên, Trương Mạnh Điệp (Liên Hiệp Khoa học địa chất
và du lịch).
Sau gần 30 năm mò mẫm kết hợp những điều
đã học, bổ xung nhiều điều trong thực tế bằng cái giá tự trả nhiều tỷ đồng,
chúng tôi đã thăm dò và xây dựng được
hơn 130 giếng khoan cho nhiều vùng mà các người đến trước không tìm được như:
3 giếng khoan ở khu công nghiệp Dung Quất, 3 giếng khoan ( nước hơi lợ) trên
đảo Hòn Tre ( Khánh Hòa), 4 giếng khoan ở thị trán Đồng Văn, 1 giếng khoan ở xã Lũng Phìn - huyện Đồng Văn - Hà Giang, 3 giếng khoan ở xã Phước Đại – huyện Bác ái ,
1 giếng khoan nước khoáng nóng ở xã Mỹ Sơn - Ninh Sơn
thuộc miền Tây tỉnh Ninh Thuận, 2 giếng khoan ở xã Nghi Lâm - huyện Nghi Lộc – Nghệ An,
các đơn vị Quân đội ở Sơn Tây, Xuân Mai, Hoà Bình, Vĩnh Phú, nhiều trại giam
của thường phạm và Quân đội ở các vùng
khô cằn ( Thanh Hóa, Ba Vì, Vĩnh Phú..).
Do tìm
khoan được nước ngầm cho huyện Đồng Văn ( Hà Giang) và Bác Ái ( Ninh Thuận), ngày 06/1/2006 Liên hiệp
Khoa học địa chất và du lịch của chúng tôi đã được Chủ tịch nước Trần Đức Lương
gửi thư khen và Liên hiệp các hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam tặng bằng khen.
Có được thắng lợi đó là nhờ chúng tôi đã tìm
được những điều mà trong các sách người ta chưa nói thật hoặc chưa nói hết.
Hình 1: Nghiệm thu Giếng khoan số 2
và 3 trong 4 GK ở thị trấn Đồng Văn – tỉnh Hà Giang
Ngày nay
và sau này khi mà biến đổi khí hậu làm cho đồng bằng nhỏ dần phải mở rộng dân
cư lên vùng cao hơn vấn đề nước sinh hoạt sẽ ngày càng khó khăn. Đặc biệt hiện
nay miền Trung đang rất khô hạn. Để góp phần vào sự nghiệp tìm nước cho vùng
miền Trung, nói riêng, nhiều nơi khác, nói chung, Liên hiệp Khoa học Địa chất
và Du lịch thuộc Tổng hội Địa chất Việt Nam xin mang các điều rút ra được
trình bày để mọi người cùng xem xét, ứng dụng.
A
- Cơ sở khoa học:
Theo chúng
tôi, nước ngầm ở Trung du và miền núi có nguồn gốc nội sinh là chủ yếu, Chúng
chỉ được thành tạo tại giao điểm của các đứt gẫy kiến tạo, thường là 4 đứt
gẫy và tại đó phải có các hoạt động đi kèm của xâm nhập nông á núi lửa trẻ ( Nước
có nguồn gốc núi lửa và á núi lửa). Tức là chỉ tìm được nước ngầm nguồn gốc sâu
tại các họng núi lửa đã từng hoạt động. Chúng có thể phun trào lên mặt đất hoặc phun nghẹn. Các họng núi lửa này có thể
nhô cao hơn mặt đất. Chìm sâu hơn mặt đất và bị phủ bởi các trầm tích Đệ tứ.
Với vùng cao nguyên đá thì còn đòi hỏi thêm một số điều kiện như kích thước núi
lửa phải đủ lớn để dung nham lấp đầy các đứt gẫy, khe nứt. Không cho nước đã
sinh thành không bị trôi xuống sâu.
Đây
là lý do làm cho việc tìm nước nói
riêng, nước ngầm, nói chung, cho vùng cao nguyên đá vôi khó hơn tìm khoáng sản
quý hiếm.
Đặc
trưng của các thân đất đá chứa nước ngầm nguồn gốc sâu là: các họng núi lửa
dạng nón hoặc dạng trụ. Các cuống phễu và các trụ luôn cắm thẳng đứng, có đường
kính từ vài mét đến vài chục mét. Chúng chính là giao tuyến của các đứt gẫy bị
dung nham núi lửa phun lên lấp đầy. Phần loe lên của nón là kết quả của vụ bùng
nổ núi lửa, giống hiệu ứng viên đạn bắn xuyên tường làm đầu ra bị loét rộng (
Điều này làm nhiều người cho là đứt gẫy nằm nghiêng), các hang karst dưới mực
nước ngầm.
Nước
ngầm nguồn gốc sâu có lưu lượng vài trăm m3/ngày đêm, ổn định quanh
năm và lâu dài, chất lượng dùng được cho sinh hoạt ít khi phải sử lý.
Khi
đã hiểu đúng bản chất của nước ngầm thì việc tìm ra chúng là không khó, nếu ở vùng
đó có tồn tại. Trong đó, công tác địa chất để tìm các giao điểm
của các đứt gẫy kiến tạo và công tác địa vật lý là quyết định cho thắng lợi của việc thăm dò nước ngầm.
B.
Những dấu hiệu địa chất, địa mạo cho việc đào giếng, ao hoặc khoan dễ cho gặp
nước ngầm nguồn gốc sâu:
Như trên đã nêu: Đối với
miền Trung, địa hình chủ yếu là đồi núi, các thung lũng ruộng cũng có lớp đất
phủ không dày. Vì vậy khả năng lưu trữ nguồn nước mưa từ trên mặt đất ngấm
xuống là không đáng kể. Hạn như hiện nay thì chắc không thể còn. Vì vậy phải
tìm nguồn nước ngầm nguồn gốc nội sinh từ các họng núi lửa cổ. Dấu hiệu để nhận
biết các hang núi lửa cổ là:
a/ Bom núi lửa: đó là các bãi đá chồng, đá mồ côi ( Dân ta
thường gọi). Chúng ta có thể đào giếng, ao hoặc khoan sát ngay bãi đá chồng
hoặc tốt nhất vào giữ tâm bãi. Dấu hiệu này gặp nhiều ở vùng Ninh Thuận, Bình
Thuận, Phú Yên, Khánh Hòa và nhiều vùng khác.
Hỡnh 5. Bói đá chồng ( Bói bom nỳi
lửa) phớa nam thụn Thỏi An – xó Vĩnh Hải nhỡn ra đảo Hũn Đỏ..
b/ Các bãi đá ong. Đá ong thực chất là dăm, cuội dung nham núi
lửa trẻ có thành phần bazơ-kiềm bị phong hóa tại chỗ trên mực nước ngầm. Bên
dưới đá ong thường là đá cổ hơn hoặc cũng là dăm cuội dung nham núi lửa nhưng
bị phong hóa dưới mực nước ngầm thành sét-kaolin chứa dăm, cuội cát, sỏi và
khoáng vật quặng kim loại. Gặp được lớp này chắc chắn có nước, Đào được càng
dày lớp này thì lưu lượng nước càng lớn.
Với các vùng cao nguyên đất
đỏ, việc gặp được các bãi sỏi ong ( Các hạt đất, đá màu đen, tròn cạnh) cũng là
những dấu hiệu tốt cho đào giếng, ao tìm
nguồn nước ngầm nguồn gốc sâu.
c/ Dấu
hiệu địa mạo: Các thung lũng ruộng, các
sông, suối, khe chủ yếu là do kết quả hoạt động của các đứt gẫy kiến tạo. Chúng
tạo ra các đới dập vỡ mềm hơn để cho nước mưa sói mòn tạo thành các thung lũng,
sông suối như ngày nay. Tuy vậy chỉ tại giao điểm của các đứt gẫy, nhất là giao
tuyến của 4 đứt gẫy do tác dụng xuyên lên của các họng núi lửa thì mới có nhiều
nước và bền vững. Dấu hiệu này rất quan trọng, nhưng do nhiều nơi bị phủ, chưa
có kinh nghiệm thì khó làm được. Vấn đề này nơi nào cần, có thể liên hệ trực
tiếp với tác giả để được giúp đỡ.
d/ Các hố tử thần ( với
vùng đá vôi như ở Quý Lộc, Quan Sơn, Cẩm Phả, Phú Thọ hoặc mọi vùng khác như ở
Mộ Đức - Quảng Ngãi) chính là các họng núi lửa cổ bị sụt nóc. Nơi đây luôn là
nguồn nước ngầm vĩnh cửu có chất lượng tốt, lưu lượng lớn.
e/ Trung tâm các bãi quặng
lộ của sắt, mangan ( ở xã Hòa Sơn – Ninh Thuận, Nghi Lâm - Nghệ An,…), bauxite ( Hà Giang,
Lạng Sơn,…). Cũng là dấu hiệu trực tiếp để tìm ra họng núi lửa, nơi quặng từ đó
chui lên và cũng là nơi cấp nước ngầm tốt nhất cho vùng.
g/ Dấu
hiệu và phương pháp địa vật lý: Từ 30
năm trước đến nay chúng tôi dùng phương pháp thăm dò từ chính xác cao để xác
định chính xác vị trí triển vọng nhất trong các họng núi lửa cổ cho khoan thăm
dò nước ngầm sau khi xác định được vị trí tương đối của các họng núi lửa có thể
chứa nước theo lối điểm huyệt ( bằng tổ hợp địa chất và địa mạo), Đến nay, chắc
vẫn ít người tin dùng. Họ thường áp dụng các phương pháp thăm dò mặt cắt, đo
sâu điện, v.v. Nhưng chính cách làm này ít mang lại hiệu quả đối với trung du
và miền núi dù tốn kém hơn nhiều. Bởi vì các bài toán giải cho thăm dò điện là
các lớp nằm ngang hoặc hơi nghiêng. Còn vật thể chứa nước của thực tế là dạng
trụ cắm thẳng đứng.v.v.
Các dấu hiệu này có thể
vận dụng cho nhiều nơi khác như các hải đảo và sa mạc để tìm nước sinh hoạt cho
dân.
C.
Kết luận:
Mọi Dự án và phương án thăm dò nước đều chỉ
có giá trị khi tìm ra nguồn nước sử dụng được. Vì vậy các nhà quản lý khi
giao việc chỉ nên lấy nước làm trọng.
Việc thăm dò và xây dựng các giếng khoan cho Trung du và miền núi rủi ro rất cao, nên giao việc bằng cách khoán gọn,
có nước sẽ được tiền. Làm như vậy, người làm thuê sẽ cố gắng tìm được nước
để lấy tiền, còn Nhà nước chỉ phải trả tiền khi các giếng khoan có nước khai
thác được.
Có thể còn nhiều tranh cãi, nhưng chúng tôi đã
thắng lợi đúng bằng lý thuyết tìm được nêu trên. Đưa ra công luận vấn đề này,
chúng tôi muốn cư dân những vùng không có nước đỡ khổ sớm hơn, đồng thời Nhà
nước và các địa phương chỉ phải chi
tiền vào việc có ích cho dân./.
Hà Nội, ngày 20 tháng 3 năm 2015
Thay mặt các tác giả
( Đã ký)
TS. Lê Huy Y
No comments:
Post a Comment