Thursday, April 16, 2015

Điện gió trên biển Việt Nam - Tiềm năng và hiện thực

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 17/07/2014,  Xin giới thiệu bài viết của TS Nguyễn Bách Phúc Chủ tịch Hội Tư vấn Khoa học công nghệ & Quản lý TP.HCM HASCON, Viện trưởng Viện Điện - Điện tử - Tin học EEI

TS Nguyễn Bách Phúc
Chủ tịch Hội Tư vấn Khoa học Công nghệ và Quản lý Tp.HCM HASCON
Viện trưởng Viện Điện- Điện tử -Tin học EEI

KS Phạm Cương
Chủ tịch HĐTV kiêm Tổng GĐ Công ty Năng lượng Tái tạo Điện lực Dầu khí

Giữa thế kỷ 20 các nhà khoa học đã đưa ra những cảnh báo về nguy cơ khủng hoảng năng lượng. Các dạng năng lượng truyền thống (dầu mỏ, hí đốt, than, vv..) đang được con người  khai thác với tốc độ nhanh và ngày càng cạn kiệt, có nhiều nghiên cứu cho rằng trong vòng 50 đến 80 năm nữa sẽ hết.
Nhiều nhà khoa học quan tâm đầu tư nghiên cứu tìm kiếm những nguồn năng lượng tái tạo thân thiện với môi trường, cả thế giới đang hành động “vì một hành tinh xanh”.
Hiện nay người ta đã nghiên cứu và sử dụng nhiều dạng năng lượng tái tạo như: Năng lượng gió, Năng lượng mặt trời, Biogas, Than xanh từ các thân lá cây, địa nhiệt, năng lượng sóng biển, thủy triều vv.

Ở Việt Nam nguồn năng lượng tái tạo được coi là khả thi và hiệu quả, cần tập trung nghiên cứu, đầu tư xây dựng với qui mô lớn, đó là năng lượng Gió và Mặt Trời, trong đó theo nghiên cứu khảo sát và so sánh thì năng lượng gió đươc coi là tối ưu và hiệu quả nhất.

1.      Vài thông tin về điện gió của thế giới:

Bảng 1 xếp thứ tự các nước theo tổng công suất điện gió, tính bằng MW
Bảng 1 cho thấy: Trung Quốc đứng đầu bảng với 63000 MW, Việt Nam đứng cuối bảng với 52 MW
                                                                                                                            
BẢNG 1: TỔNG CÔNG SUẤT ĐIỆN GIÓ CỦA CÁC NƯỚC
TT
Tên nước
Dân số (2010).
Triệu người
Diện tích (km²)
Chiều dài bờ biển (km)
GDP/
người (USD), 2010
Tổng Công suất điện gió, MW
Công suất điện gió
/người, MW/Triệu người
1
Trung Quốc, 2011
1.338,300
9.571.300
14500
4421
63000
47.1
2
Mỹ, 2011
309,349
9.629.091
19924
46900
47000
151.9
3
Đức, 2012
81,777
357.021
2389
40198
31332
383.1
4
Tây Ban Nha, 2012
46,071
504.782
4964
30334
22796
494.8
5
Ấn Độ, 2009
1.224,615
3.287.263
7516
1342
10925
8.9
6
Canada, 2011
34,126
9.984.670
20208
46283
6500
190.5
7
Thổ Nhĩ Kỳ, 2012
72,752
780.58
8333
10062
5300
72.9
8
Ý, 2009
60,483
301.336
7600
34154
4850
80.2
9
Pháp, 2009
64,895
674,843
3427
44008
4500
69.3
10
Anh Quốc, 2010
62,232
130.395
12429
36371
4000
64.3
11
Đan Mạch, 2009
5,547
42.434
7314
56369
3465
624.7
12
Brazil, 2011
194,946
8.514.877
7491
11089
2500
12.8
13
Ba Lan, 2012
38,184
304.255
440
12286
2497
65.4
14
Nhật Bản, 2010
127,451
364.485
29751
43015
2304
18.1
15
Hà Lan, 2007
16,616
41.848
451
46989
1746
105.1
16
Mexico, 2012
113,423
1.964.375
933
9219
1370
12.1
17
Việt Nam, 2013
86,928
331.698
3260
1174
52
0.598

Bảng 2 xếp hạng các nước theo công suất điện gió trên đầu người, đơn vị ở đây là MW/triệu người.

Bảng 2 cho thấy: Đan Mạch đứng đầu bảng, với 624.7 MW/triệu người, Việt Nam đứng cuối bảng với 0.529 MW/triệu người


BẢNG 2: CÔNG SUẤT ĐIỆN GIÓ NGƯỜI
STT
Tên nước
Dân số (2010)
Diện tích (km²)
Chiều dài bờ biển (km)
GDP/người (USD), 2010
Tổng Công suất điện gió, MW
Công suất điện gió/người, MW/Triệu người
1
Đan Mạch, 2009
5,547
42.434
7314
56369
3465
624.7
2
Tây Ban Nha, 2012
46,071
504.782
4964
30334
22796
494.8
3
Đức, 2012
81,777
357.021
2389
40198
31332
383.1
4
Canada, 2011
34,126
9.984.670
20208
46283
6500
190.5
5
Mỹ, 2011
309,349
9.629.091
19924
46900
47000
151.9
6
Hà Lan, 2007
16,616
41.848
451
46989
1746
105.1
7
Ý, 2009
60,483
301.336
7600
34154
4850
80.2
8
Thổ Nhĩ Kỳ, 2012
72,752
780.58
8333
10062
5300
72.9
9
Pháp, 2009
64,895
674,843
3427
44008
4500
69.3
10
Ba Lan, 2012
38,184
304.255
440
12286
2497
65.4
11
Anh Quốc, 2010
62,232
130.395
12429
36371
4000
64.3
12
Trung Quốc, 2011
1,338,300
9.571.300
14500
4421
63000
47.1
13
Nhật Bản, 2010
127,451
364.485
29751
43015
2304
18.1
14
Brazil, 2011
194,946
8.514.877
7491
11089
2500
12.8
15
Mexico, 2012
113,423
1.964.375
933
9219
1370
12.1
16
Ấn Độ, 2009
1,224,615
3.287.263
7516
1342
10925
8.9
17
Việt Nam, 2013
86,928
331.698
3260
1174
52
0.598

2.      Tiềm năng  năng lượng gió Việt Nam:

Năng lượng gió phân bố không đều trên toàn lãnh thổ. Thực tế của Việt Nam và thế giới cho thấy năng lượng gió được tập trung khai thác ven bờ biển, trên mặt biển, và các hải đảo.

Với chiều dài bờ biển hơn 3000 km, chạy dọc từ Bắc vào Nam, Việt Nam được đánh giá là đất nước có tiềm năng điện gió rất lớn. Những năm đầu của thế kỷ 21 Ngân hàng thế giới đã tiến hành xây dựng bản đồ tiềm năng gió cho 4 nước khu vực Đông Nam Á bao gồm: Việt Nam, Thái Lan, Lào, Cam-pu-chia. Theo kết quả của bản đồ năng lượng gió này thì tiềm năng năng lượng gió Việt Nam có thể đạt hơn 500.000 MW. Lưu ý rằng toàn bộ công suất đặt của toàn hệ thống điện Việt Nam hiện nay khoảng 25000 MW, mới chỉ bằng 1/20 tiềm năng điện gió, nói cách khác nếu Việt Nam khai thác hết tiềm năng gió thì tổng công suất điện gió có thể lớn gấp 20 lần tổng công suất điện hiện tại của Việt Nam. Vì vậy Ngân hàng thế giới coi Việt Nam là đất nước có tiềm năng điện gió lớn hơn nhiều so vớc các nước khác trong khu vực.

Trên cơ sở số liệu của bản đồ tiềm năng gió của Ngân hàng thế giới, Tập đoàn Điện lực Việt nam (EVN) đã tiếp tục đầu tư khảo sát nghiên cứu đánh giá tiềm năng điện gió, đã đạt được một số dữ liệu làm cơ sở xác định những khu vực thích hợp cho đầu tư phát triển điện gió trong tương lai. Kết quả nghiên cứu cho thấy những vùng có thể tạo ra nguồn năng lượng điện gió  với hiệu quả cao tập trung vào: Trung trung bộ (Quảng Bình đến Khánh Hòa), Nam Trung bộ (Ninh Thuận, Bình Thuận) và các tỉnh Nam bộ (Bạc Liêu, Sóc Trăng..) trong đó hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận đươc coi là hai tỉnh có tiềm năng lớn nhất, là khu vực đầu tư cho Điện gió khả thi nhất.
 Theo số liệu bản đồ năng lượng gió được lập, với tốc độ gió từ 6-7m/s ở độ cao từ 60-80 m khu vực hai tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận có thể xây dựng lắp đặt nhiều trang trại gió (Wind farm) với tổng công suất lên đến 9500 MW (gấp gần 4 lần nhà máy thủy điện Sơn La).

 Hiện nay Ninh Thuận và Bình Thuận đang kêu gọi nhiều nhà đầu tư tham gia đầu tư các dự án điện gió. Hiệp hội Điện gió tỉnh Bình Thuận đã được thành lập hơn 3 năm, hoạt động rất đều đặn, đã góp phần vào công tác tư vấn, môi giới cho các Nhà đầu tư, đã đề nghị Ủy ban Nhân dân Tỉnh Bình Thuận kịp thời tháo gỡ những vướng mắc khó khăn cho những đối tác quan tâm đầu tư xây dựng trang trại Điện gió.

3.   Thực tế các dự án Điện gió của Việt Nam hiện nay.

Theo thống kê của Hội Điên gió Bình Thuận trong báo cáo vào tháng 5/2013 vừa qua, và số liệu của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) thì hiện nay có hơn 50 dự án Điện gió đã đăng ký xin đầu tư, phần lớn tập trung ở khu vực từ Trung Trung bộ vào các tỉnh phiá Nam.

Đến tháng 5 năm 2013, Việt Nam đã có 3 nhà máy điện gió đã xây dựng  hoàn thành và phát điện thương mại:
-         Trang trại điện gió trên bờ biển, nối lưới quốc gia, tại xã Bình Thạnh, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận, Chủ đầu tư là Công ty Cổ phần năng lượng tái tạo Việt Nam với tổng mức đầu tư  gần 75 triệu USD (1500 tỷ VND), đã hoàn thiện giai đoạn 1 với Tổng công suất 30MW.
-         Nhà máy Phong điện đảo Phú Quí, tại đảo Phú Quí, vận hành hỗn hợp với lưới diện độc lập trên đảo, Chủ đầu tư là Công ty TNHH Một Thành Viên “Năng lượng Tái tạo Điện lực Dầu khí” của Tập đoàn Dầu Khí Quốc gia Việt Nam,  với tổng công suất 6MW và tổng mức đầu tư 335 tỷ VNĐ.
-         Trang trại Điện gió trên biển tại tỉnh Bạc Liêu nối lưới quốc gia, Chủ đầu tư là Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Công lý với tổng Công suất 16 MW.

Ngoài ra có một dự án đang tiến hành thực hiện các bước: Thu xếp vốn, xin chủ tương đầu tư, lập dự án đầu tư, xin giấy phép đầu tư vv.  (Dự án điện gió Phú Lạc Thuận Bình 30 MW, dự án trang trại gió Hòa Thắng 202MW, vv…) và còn rất nhiều dự án (hơn 40 dự án) chỉ mới xin chủ trương, chờ cơ chế phù hợp thì các nhà đầu tư mới thực hiện
Mục tiêu của Chính phủ là ưu tiên phát triển nguồn năng lượng tái tạo, phấn đấu tăng tỷ lệ sản lượng điện từ nguồn năng lượng tái tạo đạt 4,5%  (năm 2020) và 6% năm 2030, đồng thời thực hiện lộ trình hình thành thị trường điện cạnh tranh, tháo gỡ một phần khó khăn cho các nhà đầu tư năng lượng sạch.
Thủ Tướng chính phủ đã ban hành quyết định số 37/2011/QĐ-TTg ngày 29/6/2011 quy định cơ chế hỗ trợ phát triển điện gió tại Việt Nam, và quyết định số 1208/2011/QĐ-TTg phê duyệt qui hoạch phát triển Điện lực Quốc gia giai đoạn 2011-2020 có tính đến năm 2030. Các quyết định này đã xác định cụ thể hơn về qui hoạch, về chế độ ưu đãi tạo điều kiện thuận lợi cho các Nhà đầu tư như: Ưu đãi về tín dụng đầu tư, miễn thuế nhập khẩu thiết bị, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm tiền thuê đất, vv..
Tuy nhiên việc đầu tư xây dựng các nhà máy Phong điện vẫn còn nhiều khó khăn, chính quyền nên tiếp tục tháo gỡ, thì Việt Nam mới có thể phát huy được tiềm năng điện gió thành hiện thực.

4. Những khó khăn khi đưa tiềm năng điện gió trở thành hiện thực phục vụ đời sống:

Một là giá bán điện:

Mặc dầu theo quyết định số 37/2011/QĐ-TTg ngày 29/6/2011, Chính Phủ đã quy định bên mua điện (Tập đoàn Điện lực Việt Nam EVN) có trách nhiệm mua toàn bộ sản lượng điện sản xuất ra từ các Nhà máy Điện gió với giá 7.8 USD cent/1KWh, nhưng theo các Nhà đầu tư của các công trình đã đưa vào vận hành, thì mức giá này vẫn còn rất thấp, dẫn đến khả năng thu hồi vốn của họ là vô cùng khó khăn.
Tham khảo một số dự án điện gió tại các nước phát triển như: Đức, Hà Lan, Đan Mạch Mỹ và Trung Quốc (trong những năm gần đây có tốc độ phát triển nhanh nhất,  tổng công suất nguồn điện gió lớn nhất Thế giới hiên nay) thì suất đầu tư cho 1MW thiết bị Châu Âu đáp ứng tiêu chuẩn của Hội đồng kỹ thuật Điện quốc tế (IEC: International Electrotechnical Commision) là 2,25 triệu USD, còn nếu sử dụng công nghệ và thiết bị Trung Quốc thì suất đầu tư là 1,8 triệu USD/1MW.
Trong khi đó, ở Việt Nam, hai dự án đang trong giai đoạn quyết toán vốn đầu tư, đều sử dụng thiết bị công nghệ châu Âu Fulender, (Đức) và Vestas (Đan Mạch), thì theo tính toán sơ bộ, giá thành đã lên tới 2,5 triệu /1MW.
 Những con số trên đây nói lên rằng, với giá bán điện gió 7,8 USD cent /1KWh thì các  nhà đầu tư chưa thể mặn mà với việc đâu tư điện gió.

Hai là nguồn vốn:

Thông thường các dự án điện gió trên thế giới đều được các Quỹ bảo vệ môi trường Thế giới quan tâm, thông qua các cơ quan chức năng đánh giá tính khả thi, đặc biệt đánh giá kỹ về tác động môi trường, xã hội, trên cơ sở đó họ được cho vay vốn với lãi suất ưu đãi (1,5 -2.5%/năm).
Việc tiếp cận này của các Nhà đầu tư Viêt Nam còn rất hạn chế.
 Chính Phủ, Bộ Tài Chính, bộ Công Thương, cần có chính sách, cơ chế riêng để hỗ trợ, mở đường cho các Doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà máy điện gió tiếp cận các quỹ đầu tư bảo vệ môi trường.
 Nếu không tiếp cận được các nguồn vốn ưu đãi thì trong điều kiện hiện nay chúng ta khó có thể biến tiềm năng năng lượng gió rất lớn thành hiện thực phục vụ đời sống, và như vậy sự lãng phí nguồn năng lượng này sẽ vẫn tiếp tục kéo dài, vẫn là vấn đề tồn tại bức xúc qua nhiều thế hệ.

Ba là đột phá về giải pháp công nghệ:

 -  Nâng công suất của từng máy phát điện gió: Các dự án điện gió đã và đang thực hiện đều sử dụng với Máy phát có giải công suất từ 1 đến 2 MW. Trong khi đó tiềm năng gió của Việt Nam tại miền Trung, miền Nam, Tây Nguyên là rất lớn, tốc độ  từ  4m/s  đến 19m/s là rất phổ biến, thích hợp cho những máy phát điện gió có công suất lớn hơn.

-    Khuyến khích và hỗ trợ sản xuất và sử dụng máy phát điện gió cỡ nhỏ phục vụ gia đình: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng chế tạo các máy phát điện gió loại nhỏ từ 3 đến 10 KW, sử dụng cho gia đình, những sản phẩm này không yêu cầu công nghệ cao, các chi tiết lắp ráp có thể nâng tỷ lệ nội địa hóa đến 70, 80%, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, và sử dụng nguồn năng lượng thân thiện vơi môi trường.
Để thực hiện điều này, tổ chức Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam cần hỗ trợ vốn với lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất điện từ gió, Chính quyền địa phương tại các vùng có tiềm năng gió lớn cần quan tâm, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ về vốn, mặt bằng để xây nhà xưởng, khuyến khích các nhà khoa học mạnh dạn nghiên cứu đầu tư góp phần làm xanh môi trường sống, giải quyết viêc làm cho người dân địa phương.

-         Tính đúng, tính đủ giá thành của 1 KWh điện:

Khoa học Công nghệ và Khoa học Quản lý phải chủ động góp phần xem xét lại một cách khách quan, nghiêm túc, cụ thể, để tính đúng, tính đủ giá thành cho 1 KWh điện của Điện than, Điện khí, Thủy điện, điện gió, điện Mặt trời vv… Trong quá trình tính toán giá điện, phải kết hợp so sánh với kết quả đánh giá tác động môi trường, xã hội (đất đai, rừng núi, sông suối, và môi trường tác động đến đời sống con người), từ đó mới có thể xử lý môt cách hài hòa các mục tiêu: An ninh năng lượng quốc gia, môi trường xanh sạch đẹp, mới thực sự xây dựng đươc chiến lược, đảm bảo tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững.



No comments:

Post a Comment