Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 17/07/2014, Xin giới
thiệu bài viết của TS Nguyễn Bách Phúc Chủ tịch Hội Tư vấn Khoa học
công nghệ & Quản lý TP.HCM HASCON, Viện trưởng Viện Điện - Điện tử - Tin
học EEI
TS Nguyễn Bách Phúc
Chủ tịch Hội Tư vấn
Khoa học Công nghệ và Quản lý Tp.HCM HASCON
Viện trưởng Viện
Điện- Điện tử -Tin học EEI
KS Phạm Cương
Chủ tịch HĐTV kiêm
Tổng GĐ Công ty Năng lượng Tái tạo Điện lực Dầu khí
Giữa thế kỷ 20 các nhà khoa học đã đưa ra những cảnh báo
về nguy cơ khủng hoảng năng lượng. Các dạng năng lượng truyền thống (dầu mỏ, hí
đốt, than, vv..) đang được con người
khai thác với tốc độ nhanh và ngày càng cạn kiệt, có nhiều nghiên cứu
cho rằng trong vòng 50 đến 80 năm nữa sẽ hết.
Nhiều nhà khoa học quan tâm đầu tư nghiên cứu tìm kiếm
những nguồn năng lượng tái tạo thân thiện với môi trường, cả thế giới đang hành
động “vì một hành tinh xanh”.
Hiện nay người ta đã nghiên cứu và sử dụng nhiều dạng
năng lượng tái tạo như: Năng lượng gió, Năng lượng mặt trời, Biogas, Than xanh
từ các thân lá cây, địa nhiệt, năng lượng sóng biển, thủy triều vv.
Ở Việt Nam nguồn năng lượng tái tạo được coi là khả thi
và hiệu quả, cần tập trung nghiên cứu, đầu tư xây dựng với qui mô lớn, đó là
năng lượng Gió và Mặt Trời, trong đó theo nghiên cứu khảo sát và so sánh thì
năng lượng gió đươc coi là tối ưu và hiệu quả nhất.
1.
Vài thông tin về điện gió của thế giới:
Bảng 1 xếp thứ tự các nước theo tổng công suất điện gió,
tính bằng MW
Bảng 1 cho thấy: Trung Quốc đứng đầu bảng với 63000 MW,
Việt Nam đứng cuối bảng với 52 MW
BẢNG 1: TỔNG CÔNG SUẤT ĐIỆN GIÓ CỦA CÁC NƯỚC
|
|||||||
TT
|
Tên nước
|
Dân số (2010).
Triệu người
|
Diện tích (km²)
|
Chiều dài bờ biển (km)
|
GDP/
người (USD), 2010
|
Tổng Công suất điện gió, MW
|
Công suất điện gió
/người, MW/Triệu người
|
1
|
Trung Quốc, 2011
|
1.338,300
|
9.571.300
|
14500
|
4421
|
63000
|
47.1
|
2
|
Mỹ, 2011
|
309,349
|
9.629.091
|
19924
|
46900
|
47000
|
151.9
|
3
|
Đức, 2012
|
81,777
|
357.021
|
2389
|
40198
|
31332
|
383.1
|
4
|
Tây Ban Nha, 2012
|
46,071
|
504.782
|
4964
|
30334
|
22796
|
494.8
|
5
|
Ấn Độ, 2009
|
1.224,615
|
3.287.263
|
7516
|
1342
|
10925
|
8.9
|
6
|
34,126
|
9.984.670
|
20208
|
46283
|
6500
|
190.5
|
|
7
|
Thổ Nhĩ Kỳ, 2012
|
72,752
|
780.58
|
8333
|
10062
|
5300
|
72.9
|
8
|
Ý, 2009
|
60,483
|
301.336
|
7600
|
34154
|
4850
|
80.2
|
9
|
Pháp, 2009
|
64,895
|
674,843
|
3427
|
44008
|
4500
|
69.3
|
10
|
Anh Quốc, 2010
|
62,232
|
130.395
|
12429
|
36371
|
4000
|
64.3
|
11
|
Đan Mạch, 2009
|
5,547
|
42.434
|
7314
|
56369
|
3465
|
624.7
|
12
|
194,946
|
8.514.877
|
7491
|
11089
|
2500
|
12.8
|
|
13
|
Ba Lan, 2012
|
38,184
|
304.255
|
440
|
12286
|
2497
|
65.4
|
14
|
Nhật Bản, 2010
|
127,451
|
364.485
|
29751
|
43015
|
2304
|
18.1
|
15
|
Hà Lan, 2007
|
16,616
|
41.848
|
451
|
46989
|
1746
|
105.1
|
16
|
113,423
|
1.964.375
|
933
|
9219
|
1370
|
12.1
|
|
17
|
Việt
|
86,928
|
331.698
|
3260
|
1174
|
52
|
0.598
|
Bảng 2 xếp hạng
các nước theo công suất điện gió trên đầu người, đơn vị ở đây là MW/triệu
người.
Bảng 2 cho thấy:
Đan Mạch đứng đầu bảng, với 624.7 MW/triệu người, Việt Nam đứng cuối
bảng với 0.529 MW/triệu người
BẢNG 2: CÔNG SUẤT ĐIỆN GIÓ NGƯỜI
|
|||||||
STT
|
Tên nước
|
Dân số (2010)
|
Diện tích (km²)
|
Chiều dài bờ biển (km)
|
GDP/người (USD), 2010
|
Tổng Công suất điện gió, MW
|
Công suất điện gió/người, MW/Triệu người
|
1
|
Đan Mạch, 2009
|
5,547
|
42.434
|
7314
|
56369
|
3465
|
624.7
|
2
|
Tây Ban Nha, 2012
|
46,071
|
504.782
|
4964
|
30334
|
22796
|
494.8
|
3
|
Đức, 2012
|
81,777
|
357.021
|
2389
|
40198
|
31332
|
383.1
|
4
|
34,126
|
9.984.670
|
20208
|
46283
|
6500
|
190.5
|
|
5
|
Mỹ, 2011
|
309,349
|
9.629.091
|
19924
|
46900
|
47000
|
151.9
|
6
|
Hà Lan, 2007
|
16,616
|
41.848
|
451
|
46989
|
1746
|
105.1
|
7
|
Ý, 2009
|
60,483
|
301.336
|
7600
|
34154
|
4850
|
80.2
|
8
|
Thổ Nhĩ Kỳ, 2012
|
72,752
|
780.58
|
8333
|
10062
|
5300
|
72.9
|
9
|
Pháp, 2009
|
64,895
|
674,843
|
3427
|
44008
|
4500
|
69.3
|
10
|
Ba Lan, 2012
|
38,184
|
304.255
|
440
|
12286
|
2497
|
65.4
|
11
|
Anh Quốc, 2010
|
62,232
|
130.395
|
12429
|
36371
|
4000
|
64.3
|
12
|
Trung Quốc, 2011
|
1,338,300
|
9.571.300
|
14500
|
4421
|
63000
|
47.1
|
13
|
Nhật Bản, 2010
|
127,451
|
364.485
|
29751
|
43015
|
2304
|
18.1
|
14
|
194,946
|
8.514.877
|
7491
|
11089
|
2500
|
12.8
|
|
15
|
113,423
|
1.964.375
|
933
|
9219
|
1370
|
12.1
|
|
16
|
Ấn Độ, 2009
|
1,224,615
|
3.287.263
|
7516
|
1342
|
10925
|
8.9
|
17
|
Việt
|
86,928
|
331.698
|
3260
|
1174
|
52
|
0.598
|
2. Tiềm năng
năng lượng gió Việt Nam :
Năng lượng gió
phân bố không đều trên toàn lãnh thổ. Thực tế của Việt Nam và thế giới
cho thấy năng lượng gió được tập trung khai thác ven bờ biển, trên mặt biển, và
các hải đảo.
Với chiều dài bờ
biển hơn 3000 km, chạy dọc từ Bắc vào Nam, Việt Nam được đánh giá là đất nước
có tiềm năng điện gió rất lớn. Những năm đầu của thế kỷ 21 Ngân hàng thế giới
đã tiến hành xây dựng bản đồ tiềm năng gió cho 4 nước khu vực Đông Nam Á bao
gồm: Việt Nam, Thái Lan, Lào, Cam-pu-chia. Theo kết quả của bản đồ năng lượng
gió này thì tiềm năng năng lượng gió Việt Nam có thể đạt hơn 500.000 MW. Lưu
ý rằng toàn bộ công suất đặt của toàn hệ thống điện Việt Nam hiện nay khoảng
25000 MW, mới chỉ bằng 1/20 tiềm năng điện gió, nói cách khác nếu Việt Nam khai
thác hết tiềm năng gió thì tổng công suất điện gió có thể lớn gấp 20 lần tổng
công suất điện hiện tại của Việt Nam. Vì vậy Ngân hàng thế giới coi Việt Nam là đất nước
có tiềm năng điện gió lớn hơn nhiều so vớc các nước khác trong khu vực.
Trên cơ sở số
liệu của bản đồ tiềm năng gió của Ngân hàng thế giới, Tập đoàn Điện lực Việt
nam (EVN) đã tiếp tục đầu tư khảo sát nghiên cứu đánh giá tiềm năng điện gió,
đã đạt được một số dữ liệu làm cơ sở xác định những khu vực thích hợp cho đầu
tư phát triển điện gió trong tương lai. Kết quả nghiên cứu cho thấy những vùng
có thể tạo ra nguồn năng lượng điện gió
với hiệu quả cao tập trung vào: Trung trung bộ (Quảng Bình đến Khánh
Hòa), Nam Trung bộ (Ninh Thuận, Bình Thuận) và các tỉnh Nam bộ (Bạc Liêu, Sóc
Trăng..) trong đó hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận đươc coi là hai tỉnh có
tiềm năng lớn nhất, là khu vực đầu tư cho Điện gió khả thi nhất.
Theo số liệu bản đồ năng lượng gió được lập,
với tốc độ gió từ 6-7m/s ở độ cao từ 60-80 m khu vực hai tỉnh Bình Thuận và
Ninh Thuận có thể xây dựng lắp đặt nhiều trang trại gió (Wind farm) với tổng
công suất lên đến 9500 MW (gấp gần 4 lần nhà máy thủy điện Sơn La).
Hiện nay Ninh Thuận và Bình Thuận đang kêu gọi
nhiều nhà đầu tư tham gia đầu tư các dự án điện gió. Hiệp hội Điện gió tỉnh
Bình Thuận đã được thành lập hơn 3 năm, hoạt động rất đều đặn, đã góp phần vào
công tác tư vấn, môi giới cho các Nhà đầu tư, đã đề nghị Ủy ban Nhân dân Tỉnh
Bình Thuận kịp thời tháo gỡ những vướng mắc khó khăn cho những đối tác quan tâm
đầu tư xây dựng trang trại Điện gió.
3. Thực tế các dự án Điện gió của Việt Nam hiện nay.
Theo thống kê
của Hội Điên gió Bình Thuận trong báo cáo vào tháng 5/2013 vừa qua, và số liệu
của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) thì hiện nay có hơn 50 dự án Điện gió đã
đăng ký xin đầu tư, phần lớn tập trung ở khu vực từ Trung Trung bộ vào các tỉnh
phiá Nam.
Đến tháng 5 năm
2013, Việt Nam
đã có 3 nhà máy điện gió đã xây dựng
hoàn thành và phát điện thương mại:
-
Trang
trại điện gió trên bờ biển, nối lưới quốc gia, tại xã Bình Thạnh, huyện Tuy
Phong, tỉnh Bình Thuận, Chủ đầu tư là Công ty Cổ phần năng lượng tái tạo Việt
Nam với tổng mức đầu tư gần 75 triệu USD
(1500 tỷ VND), đã hoàn thiện giai đoạn 1 với Tổng công suất 30MW.
-
Nhà
máy Phong điện đảo Phú Quí, tại đảo Phú Quí, vận hành hỗn hợp với lưới diện độc
lập trên đảo, Chủ đầu tư là Công ty TNHH Một Thành Viên “Năng lượng Tái tạo
Điện lực Dầu khí” của Tập đoàn Dầu Khí Quốc gia Việt Nam, với tổng công suất 6MW và tổng mức đầu tư 335
tỷ VNĐ.
-
Trang
trại Điện gió trên biển tại tỉnh Bạc Liêu nối lưới quốc gia, Chủ đầu tư là Công
ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Công lý với tổng Công suất 16 MW.
Ngoài ra có một
dự án đang tiến hành thực hiện các bước: Thu xếp vốn, xin chủ tương đầu tư, lập
dự án đầu tư, xin giấy phép đầu tư vv.
(Dự án điện gió Phú Lạc Thuận Bình 30 MW, dự án trang trại gió Hòa Thắng
202MW, vv…) và còn rất nhiều dự án (hơn 40 dự án) chỉ mới xin chủ trương, chờ
cơ chế phù hợp thì các nhà đầu tư mới thực hiện
Mục tiêu của
Chính phủ là ưu tiên phát triển nguồn năng lượng tái tạo, phấn đấu tăng tỷ lệ
sản lượng điện từ nguồn năng lượng tái tạo đạt 4,5% (năm 2020) và 6% năm 2030, đồng thời thực
hiện lộ trình hình thành thị trường điện cạnh tranh, tháo gỡ một phần khó khăn
cho các nhà đầu tư năng lượng sạch.
Thủ Tướng chính
phủ đã ban hành quyết định số 37/2011/QĐ-TTg ngày 29/6/2011 quy định cơ chế hỗ
trợ phát triển điện gió tại Việt Nam , và quyết định số
1208/2011/QĐ-TTg phê duyệt qui hoạch phát triển Điện lực Quốc gia giai đoạn
2011-2020 có tính đến năm 2030. Các quyết định này đã xác định cụ thể hơn về
qui hoạch, về chế độ ưu đãi tạo điều kiện thuận lợi cho các Nhà đầu tư như: Ưu
đãi về tín dụng đầu tư, miễn thuế nhập khẩu thiết bị, giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp, giảm tiền thuê đất, vv..
Tuy nhiên việc
đầu tư xây dựng các nhà máy Phong điện vẫn còn nhiều khó khăn, chính quyền nên
tiếp tục tháo gỡ, thì Việt Nam mới có thể phát huy được tiềm năng điện gió
thành hiện thực.
4. Những khó
khăn khi đưa tiềm năng điện gió trở thành hiện thực phục vụ đời sống:
Một là giá
bán điện:
Mặc dầu theo quyết định số 37/2011/QĐ-TTg ngày 29/6/2011,
Chính Phủ đã quy định bên mua điện (Tập đoàn Điện lực Việt Nam EVN) có trách
nhiệm mua toàn bộ sản lượng điện sản xuất ra từ các Nhà máy Điện gió với giá
7.8 USD cent/1KWh, nhưng theo các Nhà đầu tư của các công trình đã đưa vào vận
hành, thì mức giá này vẫn còn rất thấp, dẫn đến khả năng thu hồi vốn của họ là
vô cùng khó khăn.
Tham khảo một số dự án điện gió tại các nước phát triển
như: Đức, Hà Lan, Đan Mạch Mỹ và Trung Quốc (trong những năm gần đây có tốc độ
phát triển nhanh nhất, tổng công suất
nguồn điện gió lớn nhất Thế giới hiên nay) thì suất đầu tư cho 1MW thiết bị
Châu Âu đáp ứng tiêu chuẩn của Hội đồng kỹ thuật Điện quốc tế (IEC:
International Electrotechnical Commision) là 2,25 triệu USD, còn nếu sử dụng
công nghệ và thiết bị Trung Quốc thì suất đầu tư là 1,8 triệu USD/1MW.
Trong khi đó, ở Việt Nam, hai dự án đang trong giai đoạn
quyết toán vốn đầu tư, đều sử dụng thiết bị công nghệ châu Âu Fulender, (Đức)
và Vestas (Đan Mạch), thì theo tính toán sơ bộ, giá thành đã lên tới 2,5 triệu
/1MW.
Những con số trên
đây nói lên rằng, với giá bán điện gió 7,8 USD cent /1KWh thì các nhà đầu tư chưa thể mặn mà với việc đâu tư
điện gió.
Hai là nguồn
vốn:
Thông thường các dự án điện gió trên thế giới đều được
các Quỹ bảo vệ môi trường Thế giới quan tâm, thông qua các cơ quan chức năng
đánh giá tính khả thi, đặc biệt đánh giá kỹ về tác động môi trường, xã hội,
trên cơ sở đó họ được cho vay vốn với lãi suất ưu đãi (1,5 -2.5%/năm).
Việc tiếp cận này của các Nhà đầu tư Viêt Nam còn rất hạn
chế.
Chính Phủ, Bộ Tài
Chính, bộ Công Thương, cần có chính sách, cơ chế riêng để hỗ trợ, mở đường cho
các Doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà máy điện gió tiếp cận các quỹ đầu tư bảo
vệ môi trường.
Nếu không tiếp cận
được các nguồn vốn ưu đãi thì trong điều kiện hiện nay chúng ta khó có thể biến
tiềm năng năng lượng gió rất lớn thành hiện thực phục vụ đời sống, và như vậy
sự lãng phí nguồn năng lượng này sẽ vẫn tiếp tục kéo dài, vẫn là vấn đề tồn tại
bức xúc qua nhiều thế hệ.
Ba là đột
phá về giải pháp công nghệ:
- Nâng công suất của từng máy phát điện gió:
Các dự án điện gió đã và đang thực hiện đều sử dụng với Máy phát có giải công
suất từ 1 đến 2 MW. Trong khi đó tiềm năng gió của Việt Nam tại miền Trung,
miền Nam, Tây Nguyên là rất lớn, tốc độ
từ 4m/s đến 19m/s là rất phổ biến, thích hợp cho
những máy phát điện gió có công suất lớn hơn.
-
Khuyến khích và hỗ trợ sản xuất và sử dụng máy
phát điện gió cỡ nhỏ phục vụ gia đình: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng
chế tạo các máy phát điện gió loại nhỏ từ 3 đến 10 KW, sử dụng cho gia đình,
những sản phẩm này không yêu cầu công nghệ cao, các chi tiết lắp ráp có thể
nâng tỷ lệ nội địa hóa đến 70, 80%, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc
gia, và sử dụng nguồn năng lượng thân thiện vơi môi trường.
Để thực hiện điều này, tổ chức Quỹ bảo vệ môi trường Việt
Nam cần hỗ trợ vốn với lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất
điện từ gió, Chính quyền địa phương tại các vùng có tiềm năng gió lớn cần quan
tâm, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ về vốn, mặt bằng để xây nhà xưởng, khuyến
khích các nhà khoa học mạnh dạn nghiên cứu đầu tư góp phần làm xanh môi trường
sống, giải quyết viêc làm cho người dân địa phương.
-
Tính đúng, tính đủ
giá thành của 1 KWh điện:
Khoa học Công nghệ và Khoa học Quản lý phải chủ động góp
phần xem xét lại một cách khách quan, nghiêm túc, cụ thể, để tính đúng, tính đủ
giá thành cho 1 KWh điện của Điện than, Điện khí, Thủy điện, điện gió, điện Mặt
trời vv… Trong quá trình tính toán giá điện, phải kết hợp so sánh với kết quả
đánh giá tác động môi trường, xã hội (đất đai, rừng núi, sông suối, và môi
trường tác động đến đời sống con người), từ đó mới có thể xử lý môt cách hài
hòa các mục tiêu: An ninh năng lượng quốc gia, môi trường xanh sạch đẹp, mới
thực sự xây dựng đươc chiến lược, đảm bảo tăng trưởng kinh tế và phát triển bền
vững.
No comments:
Post a Comment