Ngày
21/03/2015, Hội Tư vấn Khoa học công nghệ & Quản lý TP.HCM HASCON đã
tổ chức Hội thảo khoa học “XÂY MỚI SÂN BAY LONG THÀNH HAY NÂNG CẤP SÂN BAY TÂN SƠN NHẤT”
tại Văn phòng Quốc hội phía Nam, 194
Hoàng Văn Thụ, Phường 9, Quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh, Xin
giới thiệu bài viết của PGS TS Nguyễn Thiện Tống Chủ tịch Chi hội Hàng không thuộc Hội Tư vấn HASCON Nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Kỹ thuật Hàng không trường ĐH Bách Khoa TP HCM,
Thực hiện dự án sân bay Long Thành sẽ là một việc lãng
phí rất lớn vì qui mô quá lớn và thời điểm thực hiện quá sớm trong khi tổng vốn
đầu tư cho toàn thể dự án không được xác định và vốn đầu tư cho giai đoạn 1 để
đạt 25% năng suất dự kiến cũng không chắc có.
Sai lầm về qui mô diện tích dự án quá lớn
Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam là chủ đầu tư đã chọn Công ty tư vấn
Cảng hàng không Nhật Bản lập Báo cáo đầu tư dự án xây dựng cảng hàng không quốc
tế Long Thành mà Báo cáo này được hoàn tất vào tháng 6 năm 2013. Vốn đầu tư cho
giai đoạn 1 là 7,82 tỷ USD để Long Thành có năng suất 25 triệu khách/năm và 1,2
triệu tấn hàng hóa/năm. Khi hoàn thành giai đoạn cuối Cảng hàng không quốc tế
Long Thành sẽ là cảng hàng không trung chuyển trong khu vực Đông Nam Á với năng
suất 100 triệu khách/năm và 5 triệu tấn hàng hóa/năm.
Qui mô diện tích 5.000 ha được chọn tùy tiện một cách duy
ý chí và lãng phí mà thiếu các căn cứ nghiên cứu phân tích về diện tích và sản
lượng của các sân bay trên thế giới.
Trên thế giới có nhiều sân bay với diện
tích nhỏ nhưng năng suất cao. Sân bay quốc tế Mumbai ở Ấn Độ với diện tích 610
ha có năng suất thực tế năm 2012 là 30,7 triệu khách/năm. Sân bay này có dự án
tăng diện tích lên 800 ha để năm 2014 có năng suất thiết kế 40 triệu khách/năm,
bình quân 5,0 triệu khách/năm trên 100 ha diện tích sân bay. Sân bay Barcelona
ở Tây Ban Nha vào năm 2009 với diện tích 845 ha có năng suất thiết kế là 55
triệu khách/năm, bình quân 6,5 triệu khách/năm cho 100 ha. Vào năm 2012 sân bay
này với diện tích mở rộng lên đến 1.533 ha thì có năng suất thiết kế là 70
triệu khách/năm, bình quân 4,6 triệu khách/năm cho 100 ha.
Sân bay Chek Lap Kok ở Hồng Kông với
diện tích 1.255 ha và chỉ 2 đường băng cất hạ cánh có năng suất thiết kế 60
triệu khách/năm, bình quân 4,9 triệu khách/năm trên 100 ha. Sân bay Changi ở
Singapore với diện tích 1.300 ha có năng suất thiết kế là 66 triệu khách/năm,
bình quân 5,1 triệu khách/năm trên 100 ha. Sân bay Heathrow ở
London, Anh Quốc với diện tích 1.200 ha có năng suất thực tế năm 2012 là 70
triệu khách/năm, bình quân 5,8 triệu khách/năm trên 100 ha. Sân bay Fiuminicino ở Rome với diện tích 1.500 ha mà có năng suất thiết kế cho
năm 2044 là 100 triệu khách/năm, bình quân 6,7 triệu khách/năm trên 100 ha diện
tích sân bay.
Việc lãng phí
diện tích đất quá lớn cho dự án sân bay Long Thành còn gây tổn hại về mặt xã
hội của việc di dời và tái định cư một cộng đồng 5.381 hộ dân 6 xã của huyện
Long Thành gồm hơn 17.000 nhân khẩu với hàng ngàn mối lo âu ngổn ngang về đời
sống và việc làm của họ.
Mơ hồ về tổng số vốn đầu tư dự án
Dự án được phân kỳ theo 3 giai đoạn, trong
đó giai đoạn 1 từ 2016 đến 2025 để có năng suất 25 triệu khách/năm và 1,2 triệu
tấn hàng hóa/năm. Giai đoạn 2 theo kế hoạch sẽ
hoàn thành vào 10 năm tiếp theo từ 2025 đến 2035, nâng năng suất lên gấp đôi là
50 triệu khách/năm và 1,5 triệu tấn hàng hóa/năm. Giai đoạn 3 sau 2035 sẽ mở rộng cảng hàng
không Long Thành để đạt năng suất thiết kế cuối cùng là 100 triệu khách/năm và
5 triệu tấn hàng hóa/năm.
Sau 3 lần bổ sung
và điều chỉnh, Báo cáo đầu tư
dự án chỉ đưa ra số tiền đầu tư cho giai đoạn 1 là trên 7,8 tỷ USD mà không hề đưa
ra một con số ước tính nào cả về vốn đầu tư cho giai đoạn 2 và giai đoạn 3.
Kết thúc xây dựng giai đoạn 1 vào năm 2025 với vốn đầu tư
trên 7,8 tỷ USD thì sân bay Long Thành có năng suất đạt 25 triệu khách/năm và
1,2 triệu tấn hàng hóa/năm, chỉ bằng 25% năng suất khi hoàn tất giai đoạn 3 năm
2050. Như thế không ai biết sẽ tốn bao nhiêu cho giai đoạn 2 để nâng năng suất
lên gấp đôi là 50 triệu khách/năm và 1,5 triệu tấn hàng hóa/năm. Và cũng không ai biết sẽ tốn bao nhiêu nữa cho giai đoạn 3 để
nâng năng suất lên gấp đôi lần nữa là 100 triệu khách/năm và 5 triệu tấn
hàng hóa/năm.
Việc không ước
tính tổng số vốn đầu tư cho toàn bộ dự án sân bay Long Thành là cách làm mơ hồ
và rất mạo hiểm. Quốc Hội không thể quyết định chủ trương xây dựng sân bay Long
Thành mà không biết tổng vốn đầu tư cho cả 3 giai đoạn. Nếu lỡ bắt đầu giai
đoạn 1 rồi mà số vốn đầu tư tiếp cho các giai đoạn sau tăng lên gấp đôi gấp ba
lần thì làm sao? Ai chịu trách nhiệm chung về các quyết định đầu tư cho giai
đoạn đầu và các giai đoạn sau? Nếu không có vốn cho các giai đoạn sau thì dự án
sẽ bị lâm vào tình trạng “tấn thối lưỡng nan”, tạo ra lãng phí và tăng thêm gánh
nợ công cho đất nước.
Đến tháng
10/2014, tổng số vốn đầu tư cho cả 3 giai đoạn mới được Tổng công ty Cảng hàng
không Việt Nam đưa ra là 18,7 tỷ USD. Như thế là cần thêm 11 tỷ USD nữa cho
giai đoạn 2 và 3 mà không biết dựa trên cơ sở tính toán nào.
Sai lầm về việc cho phép tư nhân nước ngoài đầu tư vào
sân bay, vào cả nhà ga hành khách
Câu hỏi khó trả lời nhất về dự án là nguồn vốn đầu tư. Để giảm áp lực
huy động nguồn vốn lớn 7,8 tỷ USD như thế trong giai đoạn 1, chủ đầu tư là Tổng
công ty Cảng hàng không Việt Nam lại phân kỳ đầu tư thành giai đoạn 1a và 1b. Giai
đoạn 1a từ 2016 đến 2022 cần 5,66 tỷ
USD để xây dựng 1 đường cất hạ cánh và nhà ga hành khách có năng suất 17 triệu
khách/năm. Giai đoạn 1b từ 2022 đến 2025 cần
gần 2,2 tỷ USD để xây dựng thêm một đường cất hạ cánh nâng năng suất lên 25 triệu
khách/năm và 1,2 triệu tấn
hàng hóa/năm.
Theo Thông tin báo chí của Bộ Giao thông vận tải ngày 10-10-2014 về chủ
trương đầu tư dự án xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành thì “Việc huy động vốn đầu
tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành sẽ gắn với các dự án đầu tư các
hạng mục cụ thể, theo nguyên tắc Nhà nước chỉ đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư phần kết
cấu hạ tầng không có khả năng thu hồi vốn; khuyến khích đầu tư vào các hạng mục
thành phần dịch vụ khai thác, có khả năng thu hồi vốn đầu tư.”
Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam cho biết trong số 7,8
tỷ USD đầu tư cho giai đoạn 1, tiền từ ngân sách và vay ODA chiếm hơn một nửa
(51,5%), gần một nửa còn lại (48,5%) là vốn dự kiến sẽ huy động của doanh
nghiệp thông qua liên doanh, liên kết đầu tư. Trong số vốn vay ODA đó, ACV vay
lại của Chính phủ và tự hoàn trả. Điều này
hết sức mâu thuẩn vì ACV làm sao có khả năng hoàn trả trong khi những hạng mục
đầu tư xây dựng này là phần kết cấu hạ tầng không có khả năng thu hồi vốn.
Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Nguyễn Đồng Tiến cảnh báo không nên quá kỳ vọng vào nguồn vốn ODA, bởi thực tế
dòng vốn này đang suy giảm. Đó là chưa kể nguồn lực này còn phải san sẻ cho các
dự án trọng điểm khác. Thêm vào đó, nợ nước ngoài của Việt Nam đang
ở ngưỡng cao nên cũng khó có thể quá chờ đợi ở dòng tiền này.
Khi nhìn vào danh sách các tổ chức tín
dụng được liệt kê là những ứng viên sáng giá tham gia liên doanh liên kết thực
hiện dự án, ông Tiến nói: “Ngân hàng Ngoại thương, Công thương... gần như không
thể tham gia góp vốn vì bản thân họ đang gặp khó khi đầu tư vào các dự án hạ
tầng”. Trong khi với Ngân hàng Phát triển, ông Tiến cũng khẳng định gần
như “không thể có đóng góp gì” bởi nguồn tài chính của tổ chức này cũng không
mấy dư giả.
Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam
báo cáo rằng "Thực tế thì hiện có nhiều nhà đầu tư nước ngoài như Tập đoàn
ADPi (Pháp), Samsung (Hàn Quốc), Công ty Cảng hàng không Incheon (Hàn Quốc) và
một số tập đoàn của Nhật Bản bày tỏ sẵn sàng hợp tác đầu tư vào các hạng mục
của dự án dưới nhiều hình thức đầu tư như PPP, BOT". Trong Báo cáo đầu tư
dự án, nhà ga hành khách được liệt kê trong các hạng mục công trình cho phép
đầu tư tư nhân.
Dẫn chứng mô hình tại các cảng hàng
không lớn hàng đầu thế giới như Chek Lap Kok ở Hồng Kông, Changi ở Singapore, GS
Lã Ngọc Khuê cho biết “Các cơ sở vật chất chủ yếu như đường cất hạ cánh, đường
lăn, bãi đậu, nhà ga hành khách đều thuộc về sở hữu nhà nước, thông qua doanh
nghiệp nhà nước quản lý. Doanh nghiệp tư nhân chỉ tham gia các khâu thứ yếu như
ga hàng hóa, cung cấp suất ăn, dịch vụ. Tuyệt đối không có sự tham gia đầu tư
của nước ngoài. Đây là một vấn đề hết sức hệ trọng cần được xem xét một cách
nghiêm cẩn.”
Mặt khác ông Tony Tyler – Tổng Giám đốc
Hiệp hội Vận tải hàng không quốc tế (IATA) cũng cảnh báo rằng Việt Nam cần cẩn
trọng với việc cổ phần hóa các sân bay, vì kinh nghiệm
Ấn độ cho thấy khi hệ thống tài chính không có giải pháp quản lý việc thu phí
của nhà đầu tư thì kết quả là các hãng hàng không phải chịu mức phí gấp 3 lần
bình thường, làm cho sân bay này có mức chi phí đắt đỏ nhất khu vực và các hãng
hàng không e ngại việc sử dụng sân bay này.
Dự án xây dựng sân bay chỉ nên thực
hiện khi Chính phủ có đủ vốn vì các hạng mục thành phần dịch vụ khai thác có
lãi sẽ bù lỗ cho các hạng mục kết cấu hạ tầng không có lãi. Vì không có đủ vốn
nên phải huy động thêm vốn doanh nghiệp tư, nếu không có biện pháp phân chia tỷ
lệ lãi, phần đầu tư công của Chính phủ phải hoàn toàn chịu lỗ lớn, trong khi
thành phần đầu tư của doanh nghiệp tư nhân nước ngoài được hưởng lãi tất cả.
Bảng tóm tắt phân kỳ
đầu tư và nguồn vốn xây dựng cảng hàng không Long Thành
Phân
kỳ
|
Năng
suất cuối kỳ
|
Vốn đầu tư
|
Vốn
nhà nước
|
Vốn
tư nhân
|
Giai đoạn 1a
2016-2022
|
17 triệu
khách/năm
|
5,662 tỷ USD
118.910 tỷ đồng
|
2,755 tỷ USD
|
2,907 tỷ USD
|
Giai đoạn 1b
2022-2025
|
25 triệu
khách/năm và 1,2 triệu tấn hàng hóa/năm
|
2,175 tỷ USD
|
1,282 tỷ USD
|
0,893 tỷ USD
|
Giai đoạn 1
2016-2025
|
25 triệu
khách/năm và 1,2 triệu tấn hàng hóa/năm
|
7,837 tỷ USD
164.588 tỷ đồng
|
4,037 tỷ USD
|
3,800 tỷ USD
|
Giai đoạn 2
2025-2035
|
50 triệu
khách/năm và 1,5 triệu tấn hàng hóa/năm
|
Không ước
tinh
|
Không ước
tinh
|
Không ước
tinh
|
Giai đoạn 3
2035-2050
|
100 triệu
khách/năm và 5 triệu tấn hàng hóa/năm
|
Không ước
tinh
|
Không ước
tinh
|
Không ước
tinh
|
Sai lầm về chi phí đầu tư quá đắt
Suất đầu tư cho một triệu lượt khách/năm của cảng hàng không
Long Thành cao gần gấp đôi so với sân bay Suvarnabhumi của Thái Lan. Cảng hàng
không Long Thành cần tiền đầu tư 7,84 tỷ USD cho giai đoạn 1 để có năng suất là
25 triệu khách/năm, trong khi cùng số tiền này sân bay Suvarnabhumi của Thái
Lan đã có năng suất 45 triệu khách/năm.
Trong
giải trình vào đầu tháng 8 năm 2014, chủ đầu tư nói rằng việc so sánh chi phí
đầu tư giữa các nước chỉ mang tính tương đối vì giá cả mỗi nước phụ thuộc nhiều
yếu tố khác nhau. Trong khi dự toán của nhà ga T2 Nội Bài đã được lập, phê
duyệt, thẩm tra và đã triển khai nên có cơ sở cho khái toán tổng mức đầu tư dự
án Long Thành.
Giải
trình như thế là không thuyết phục vì lẽ ra với GDP trên đầu người của Việt Nam
thấp hơn của Thái Lan thì suất chi phí đầu tư xây dựng sân bay cho một triệu
lượt khách/năm của Việt Nam phải thấp hơn của Thái Lan, chứ không cao hơn gần
gấp đôi như thế. Mặt khác không thể dựa vào dự toán đầu tư của nhà ga T2 Nội
Bài vốn đã sai lầm vì đắt hơn bình thường để làm cơ sở cho sai lầm mới khi khái
toán tổng mức đầu tư dự án Long Thành.
Trong giải trình mới nhất vào đầu tháng
3 năm 2015, chủ đầu tư đưa ra con số 5,24 tỷ USD cho giai đoạn 1, giảm 1,6 tỷ
USD, khoảng 22% so với dự toán ban đầu.
Sai lầm về thời
điểm dự án
Qui mô sản lượng hàng không 100 triệu khách/năm và 5 triệu
tấn hàng hóa/năm cũng là những con số được chọn tùy tiện mà không có căn cứ vào
dự báo ở thời điểm nào thì sân bay có nhu cầu đó. Dự báo sản lượng hàng không đến
năm 2050 chỉ dựa vào số liệu 15 năm phát triển ban đầu của sân bay Tân Sơn Nhất
từ năm 1995 đến 2009 mà độ chính xác và tin cậy rất đáng ngờ vực. Tất cả những
kết quả tính toán trong Báo cáo đầu tư dự án xây dựng cảng hàng không Long
Thành vê qui mô vốn đầu tư, về hiệu quả tài chánh và kinh tế, về tỷ suất nội
hoàn... đều dựa vào dự báo sản lượng không đáng tin cậy này mà thiếu các nghiên
cứu đối chứng độc lập.
Dự án sân bay Long Thành đã được manh nha vào khoảng năm 2000 khi mà sản lượng
hàng không của sân bay Tân Sơn Nhất chỉ là 3,9 triệu khách/năm. Đến năm 2004,
ông Nguyễn Nguyên Hùng, Tổng Giám đốc Cụm cảng hàng không Miền Nam lúc ấy đã
cho biết rằng sân bay Long Thành sẽ được xây dựng trên diện tích 5.000 ha, vốn
đầu tư 4,5 tỷ USD, năng suất 80 triệu lượt khách/năm và năm 2015 sân bay Long
Thành sẽ được đưa vào khai thác từng phần song song với sân bay quốc tế Tân Sơn
Nhất. Kể từ 2005 đến nay số liệu về sản lượng hàng không của sân bay Tân Sơn Nhất
đã bị ngụy tạo nhằm thổi phồng lên để tuyên truyền về tình trạng “quá tải” của
Tân Sơn Nhất và dự báo “nhu cầu ảo” rất lớn trong tương lai gần cho sân bay
Long Thành.
Số liệu về sản lượng hàng không của sân bay Tân
Sơn Nhất trong Niên giám Thống kê của Cục Thống kê TpHCM từ 2005 đến 2012 khác
hẳn số liệu được sử dụng trong dự báo của Báo cáo đầu tư dựa án xây dựng cảng
hàng không quốc tế Long Thành.
Tính toán từ số liệu về sản lượng hàng không của
sân bay Tân Sơn Nhất trong Niên giám Thống kê của Cục Thống kê TpHCM từ 2005
đến 2012 cho thấy:
- Số chuyến bay tăng bình quân 4,5% mỗi năm,
trong đó số chuyến bay quốc tế giảm bình quân 2,15% mỗi năm và số chuyến bay
nội địa tăng bình quân 10,91% mỗi năm.
- Số hành khách tăng bình quân 4,9% mỗi năm,
trong đó số hành khách quốc tế giảm bình quân 3,38% mỗi năm và số hành khách
nội địa tăng bình quân 11,38% mỗi năm.
- Số lượng hàng hóa không tăng mà giảm bình quân
dưới 0,09% mỗi năm, trong đó số lượng hàng hóa quốc tế giảm bình quân 4,05% mỗi
năm và số lượng hàng hóa nội địa tăng bình quân 7,42% mỗi năm.
Tính toán dự báo theo khuynh hướng đó thì đến năm
2015 số chuyến bay sẽ là 89.800, số hành khách sẽ là 11,5 triệu lượt người và
số lượng hàng hóa sẽ là 301,900 tấn. Như thế sân bay Tân Sơn Nhất không “quá
tải” như chủ đầu tư dự án sân bay Long Thành tuyên truyền.
Số liệu về sản lượng hàng không của sân bay Tân
Sơn Nhất trong Niên giám Thống kê của Cục Thống kê TpHCM từ 2005 đến 2012 cho
thấy khuynh hướng trong 8 năm vừa qua là số chuyến bay quốc tế, số hành khách
quốc tế và số lượng hàng hóa quốc tế đều giảm. Sự gia tăng số chuyến bay, số
hành khách và số lượng hàng hóa là do thành phần nội địa.
Số hành khách quốc tế quá cảnh ở sân
bay Tân Sơn Nhất trong thời gian qua chắc chắn là rất ít nếu có thống kê. Vì
thế nếu được xây dựng sớm theo dự án, sân bay Long Thành không có triển vọng trở thành cảng trung chuyển hàng đầu trong
khu vực.
Một số điều chỉnh của
dự án sân bay Long Thành
Gần đây vào tháng 3/2015, sau một số điều chỉnh về diện
tích sân bay và đơn giá hạng mục thì tổng số vốn đầu tư cho cả 3 giai đoạn rút
xuống còn 15,8 tỷ USD. Như thế là giảm 2,9 tỷ USD sau một tính toán khá đơn giản
nên không có gì bảo đảm con số này không được điều chỉnh tăng trở lại dễ dàng.
Tất cả đều tùy vào chủ đầu tư trong việc đưa ra con số nào mà không có ai kiểm
chứng một cách nghiêm túc cả. Đây chỉ là những đối phó nhất thời để hy vọng dự
án được Quốc Hội thông qua chủ trương rồi khi lập luận chứng nghiên cứu khả thi
chính xác hơn thì có thể điều chỉnh trở lại.
Lưu ý rằng TS
Nguyễn Bách Phúc, Chủ tịch Hội Tư vấn HASCON đã phân tích và chỉ ra rằng với
cách giải trình của Bộ GTVT thì tổng số vốn đầu tư
cho cả 3 giai đoạn thực
chất chẳng rút xuống đồng nào.
Hơn nữa, sau đó
không lâu, Thứ trưởng Bộ GTVT tuyên bố với báo giới rằng tổng vốn đầu tư vẫn
như cũ chứ không giảm!
Chính vì thế mà Quốc hội nên xem xét cẩn thận con số giảm
2,9 tỷ khi thông qua chủ trương xây dựng sân bay Long Thành.
Tóm lại với
những lý do trên, nếu thực hiện dự
án sân bay Long Thành thì đó sẽ là một việc sai lầm và lãng phí làm tăng gánh nặng nợ công đang quá lớn.
No comments:
Post a Comment