Hội Tư vấn Khoa học Công nghệ và Quản lý Thành phố Hồ Chí Minh HASCON và Viện Điện - Điện tử - tin học EEI, xin giới thiệu bài bình luận về “Báo cáo đầu tư Dự án Cảng Hàng không Quốc tế Long Thành”: Những bất cập về pháp luật.
“BÁO
CÁO ĐẦU TƯ DỰ ÁN CẢNG HÀNG KHÔNG QUỐC TẾ LONG THÀNH”:
NHỮNG
BẤT CẬP VỀ PHÁP LUẬT
TS Nguyễn Bách Phúc
Chủ tịch Hội Tư vấn Khoa học công nghệ & Quản lý
TP.HCM HASCON
Viện trưởng Viện Điện - Điện tử - Tin học EEI
Chúng tôi may mắn được Văn phòng Quốc hội và Ủy ban Kinh
tế của Quốc hội gửi cho trọn bộ Hồ sơ “Báo cáo đầu tư dự án cảng Hàng không Quốc tế Long Thành”
(sau đây gọi tắt là Báo cáo) mà Chính phủ trình
trước Quốc hội cuối năm 20014.
Sau khi nghiên cứu thận trọng, chúng tôi nhận ra nhiều bất
cập lớn của Báo cáo, và hết
sức ngạc nhiên khi thấy văn bản trình Quốc Hội mà lại có quá nhiều lỗi nghiêm
trọng về pháp luật. Xin được viết
thành các bài bình luận.
Bình luận 1: Tên gọi của Báo cáo sai pháp luật.
Theo 2 văn bản pháp luật, là Luật Xây dựng số16/2003/QH11ngày
26/11/ 2003, tại Điều 3 Khoản 16, và Điều 36 khoản2, và Nghị định số 12/2009/NĐ-CP của
Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình ngày 12 tháng 02 năm 2009, tại Điều 5, thì với công trình
SBLT, Chính phủ phải trình Quốc hội Báo cáo với tên chính xác là“Báo cáo đầu tư xây dựng công trình cảng
Hàng không Quốc tế Sân bay Long Thành”, cũngđược gọi là “Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi đầu tư xây dựng công trình cảng Hàng
không Quốc tế Sân bay Long Thành”. Nhưng vừa qua Chính phủ đã trình Quốc hội
“Báo cáo đầu tư dự án cảng Hàng không Quốc
tế Long Thành”, đã sửa cụm từ “xây dựng
công trình” thành từ “dự án”.
Lỗi này không thể xem là nhỏ, không chỉ thể hiện cung
cách làm việc thiếu tôn trọng Pháp luật, mà quan trọng hơn, là chứng tỏ tác giả
không hiểu rõ văn bản pháp luật, bởi lẽ từ “Dự án”, theo Luật xây dựng 2003 và
Nghị định 12/2009, lạiđồng nghĩa với “Báo cáo nghiên cứu khả thi”, là Báo cáo
chỉ được thiết lập sau khi Quốc Hội ra Nghị quyết về chủ trương đầu tư.
Lưu ý rằng từ đầu năm 2015, khi Luật Xây dựng số 50/2014/QH13ngày 18 tháng 06 năm 2014 có hiệu lực, thì tên gọi của 2 công việc này sẽ
chính thức như sau:
- "Báo
cáo nghiên cứu tiền khả thi đầu tư xây dựng công trình” thay cho “Báo cáo đầu tư xây dựng công
trình”
- “Báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng
công trình” thay cho “Dự
án đầu tư xây dựng công trình”
Bình luận 2: Nội dung Báo cáo là nửa vời, trái pháp luật.
Báo cáo khẳng định quy mô của công trình là 100 triệu
hành khách/ năm, sử dụng 5000 ha đất; phân kỳ đầu tư làm 3 giai đoạn, giai đoạn
1 kết thúc năm 2023 với công suất 25 triệu hành khách năm, giai đoạn 2 kết thúc
năm 2030 với công suất 50 triệu hành khách năm, giai đoạn 3 kết thúc năm 2050 với
công suất 100 triệu hành khách năm.
Báo cáo trình Quốc Hội, là để xin Quốc Hội thông qua chủ
trương đầu tư một công trình hoành tráng như thế, vào cỡ lớn nhất thế giới như
thế.
Quốc Hội khi “bấm nút” phải xem xét nhiều chỉ tiêu, nhưng
quan trọng nhất và quyết định nhất,là hiệu
quả kinh tế xã hội của toàn công trình.
Tiếc thay Báo cáo
lại chỉ tính toán và trình Quốc Hội chỉ tiêu này của giai đoạn 1, còn của giai
đoạn 2, của gia đoạn 3 và của toàn công trình thì không không thây trình.
Sự lập lờ nửa vời đó là hoàn toàn trái pháp luật, và có
thể nói không sai, là cố tình “đánh đố” những người “bấm nút”.
Phải chăng chủ đầu tư chỉ mong Quốc Hội “bấm nút” cho
“giai đoạn 1 của công trình”?
Xin thưa, Luật Xây dựng 2003, Luật Xây dựng 2014và Nghị
quyết 49/2010/QH12của Quốc Hội không có điều nào khoản nào quy định thông
qua một phần hoặc một giai đoạn của công trình.
Ngoài ra, chúng tôi cũng hết sức băn khoăn thắc mắc, rằng
việc tính toán các chỉ tiêu của công trình vốn không có gì khó khăn đối với các
chuyên gia và các Đơn vị tư vấn đầu tư, tại sao ở đây lại không tính?
Bình luận 3: Trình
tự thiết lập Báo cáo là trái Pháp luât
Theo
4 Văn bản pháp luật:Luật
Xây dựng số16/2003/QH11,Nghị định số 12/2009/NĐ-CP, LUẬTQUY HOẠCH ĐÔ THỊ số 30/2009/QH12 ngày 17/06/2009 và NGHỊ ĐỊNH về lập, thẩm
định, phê duyệt và quản lý quy hoạch đô thị số 37/2010/NĐ-CP ngày 07
tháng 4 năm 2010, thì trình tự đầu tư xây
dựng công trình Sân bay Long Thành phải như sau:
- Chủ đầu tư thiết lập “Báo cáo đầu tư xây dựng công trình” (“Báo cáo nghiên cứu
tiền khả thi đầu tư xây dựng công trình”) trong đó chủ yếu là thiết kế sơ bộ về công trình,
- Quốc
Hội thông qua chủ trương đầu tư
- Chủ đầu tư trên cơ sở quy mô
của công trình trong “Báo cáo đầu tư xây dựng công trình”, thiết
lập “Quy hoạch xây dựng chi tiết”, là quy hoạch về sử dụng đất, về không
gian kiến trúc, cảnh quan, môi trường, sao cho phù hợp với Quy hoạch vùng, Quy
hoạch chung. “Quy hoạch xây dựng chi tiết” sau khi được Thủ Tướng duyệt, sẽ là một trong những cơ sở để thiết lập “Dự án đầu tư xây dựng công trình” (“Báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng công trình”)
-
Thủ Tướng Chính phủ giao Bộ Xây dựng thành lập Hội đồng
thẩm định, tiến hành thẩm định, trình Thủ Tướng phê duyệt“Quy hoạch xây dựng
chi tiết”.
Tại sao pháp
luật quy định phải thiết lập “Báo cáo đầu tư” trước tiên?
“Báo cáo đầu tư” sơ bộ xác định công trình là gì, quy mô công trình ra sao, lựa chọn kỹ thuật công nghệ và
thiết bị nào, dự toán Tổng vốn đầu tư là bao nhiêu, đưa ra những chỉ tiêu kinh
tế kỹ thuật, xác định lợi ích kinh tế - xã hội của công trình.Công việc này là
công việc của các chuyên gia tư vấn đầu
tư, họ phải có chuyên môn sâu sắc và
kinh nghiệm dày dạn về chuyên môn hẹp tương ứng với công trình, trong trường hợp
này là chuyên môn hẹp về thiết kế sân bay. Những chuyên gia hoặc những đơn vị
tư vấn khống có chuyên môn về thiết kế sân bay sẽ không làm được Báo cáo đầu tư
xây dựng công trình sân bay.
Công việc này có thể gọi chính
xác là “Thiết kế sơ bộ”. Hiện nay trong Luật Xây dựng 2014 số 50/2014/QH13 ngày 18 tháng 06 năm 2014 đã
chính thức sử dụng thuật ngữ này. Điều
3, khoản 40: Thiết kế sơ bộ là thiết kế được lập trong Báo cáo
nghiên cứu tiền khả thi đầu tư xây dựng, thể hiện những ý tưởng ban đầu về
thiết kế xây dựng công trình, lựa chọn sơ bộ về dây chuyền công nghệ, thiết bị
làm cơ sở xác định chủ trương đầu tư xây dựng công trình. Điều 53 khoản 4, Điều
78 khoản 1, Điều 134 khoản 1 đều góp phần làm rõ và khẳng định điều này.
Tại
sao pháp luật quy định thiết lập “Quy hoạch xây dựng” sau khi lập “Báo cáo đầu tư”?
Quy hoạch xây dựng công trình là quy hoạch về sử
dụng đất, về không gian kiến trúc, cảnh quan, môi trường, sao cho phù hợp với
Quy hoạch vùng, Quy hoạch chung. Quy hoạch này do các chuyên gia hoặc các đơn
vị tư vấn quy hoạch thực hiện. Chuyên môn sâu của họ cho phép họ có thể
lập quy hoạch cho mọi loại công trình, như sân bay, bến cảng, khu công nghiệp,
khu dân cư, mọi loại nhà máy thuộc mọi lĩnh vực công nghiệp. Khi lập quy hoạch
cho công trình, chuyên gia quy hoạch trước tiên phải được cung cấp thiết kế sơ
bộ công trình (trong báo cáo đầu tư xây dựng công trình). Nếu không có những
thông tin này, thì họ chẳng biết công trình ra sao, chẳng biết quy hoạch cái
gì.
Chúng tôi không hiểu các
chuyên gia quy hoạch của chủ đầu tư đã căn cứ vào đâu để lập quy hoạch cảng
hàng không quốc tế Long Thành, trong khi chưa có thiết kế sơ bộ của Báo cáo đầu
tư?
Thực ra khi lập Quy hoạch xây dựng công trình, pháp luật quy định phải có các bước “thiết kế
quy hoạch”, lập “đồ án quy hoạch”. Nhưng những cái đó là những bước đi của
chuyên môn quy hoạch, chứ không thể thay thế cho Thiết kế sơ bộ trong Báo cáo
đầu tư xây dựng.
Nhưng rất tiếc Chủ đầu tư và tác giả Báo cáo đã không theo trình tự này, cụ
thể:
- Trước ngày 21/2/2011
chủ đầu tư đã thiết lập“Quy hoạch cảng
hàng không Quốc tế Long Thành” (khi chưa thiết lập “Báo
cáo đầu tư xây dựng công trình”, khi chưa được Quốc Hội thông qua chủ trương đầu tư)
- Ngày 21/2/2011
Bộ Giao thông Vận tải đã thiết lập “Báo cáo thẩm định Quy hoạch cảng hàng không
Quốc tế Long Thành”, số 875/BC-BGTVT, là Báo cáo thẩm định của Bộ Giao thông
Vận tải chứ không phải của Hội đồng thẩm định do Bộ Xây dựng chủ trì
- Ngày 24/2/2011,
Bộ Giao thông Vận tải đã trình thủ Tướng Chính phủ, tờ trình số 947/TTr-BGTVT,
về việc “trình phê duyệt Quy hoạch Cảng hàng không Quốc tế Long Thành”
- Ngày 14/6/2011
Thủ Tướng Chính phủ đã ra “Quyết định phê duyệt Quy hoạch Cảng hàng không Quốc
tế Long Thành” số 909/QĐ-TTg
- Ngày 8/5/2012,
trên cơ sở Quyết định phê duyệt này, chủ đầu tư đã Quyết định chọntư vấn lập “Báo
cáo đầu tư”, là Công ty tư vấn
Cảng hàng không Nhật Bản, Quyết định số 178/QĐ-TCTCHKVN (xem trang 2 của Tóm tắt
Báo cáo)
-
Ngày 1/10/2014,
Chính phủ đã trình Quốc hội “Tờ trình Báo cáo đầu tư dự án đầu tư xây dựng Cảng
hàng không Quốc tế Long Thành”, số 360/TTr-CP, cơ sở pháp lý của Tờ trình là 16
căn cứ pháp lý, trong đó quan trọng nhất vẫn chỉ là Quyết định phê duyệt Quy
hoạch Cảng hàng không Quốc tế Long Thành số 909/QĐ-TTg, ngày 14/6/2011 của Thủ
Tướng Chính phủ kể trên.
Sai trái tai hại nhất là ở chỗ: thiết
lập “Quy hoạch cảng hàng không Quốc tế Long Thành” trước khi thiết lập “Báo cáo đầu tư xây dựng công trìnhcảng hàng không Quốc tế Long
Thành”. Việc này thực châtđã gây ra những hậu quả nặng nề
cho Báo cáo và cho công trình nếu được xây dựng mai sau.
Bình luận4: Hậu quả nặng nề
của sai trái
Chủ đầu
tư đã căn cứ vào đâu đê thiết lập Quy hoạch xây dựng cảng hàng không quốc tế
Long Thành khi chưa có Báo cáo đầu tư?
Chúng tôi
không có trong tay văn bản Quy hoạch này của chủ đầu tư nên không thể trả lời
được. Tuy nhiên cũng có thể “đoán mò” nhưsau:
“Quyết
định phê duyệt Quy hoạch Cảng hàng không quôc tế Long Thành”, số 909/QĐ-TTg ngày 14/06/2011 của Thủ Tướng
Chính phủ, có 6 điểm căn cứ, trong đó 4
căn cứ liên quan đến luật pháp và 2 căn cứ liên quan đến nội dung Quyết định, đó là:
- Quyết đinh số
21/QĐ-TTg ngày 8 tháng 01 năm 2009 của Thủ Tướng Chính phủ, phê duyệt Quy hoạch
phát triển Giao thông vận tải Hàng không giai đoạn đến năm 2020, định hướng đến
2030,
- Quyết định số
703/ QĐ-TTg ngày 20 tháng 7 năm 2005 của Thủ Tướng Chính phủ, phê duyệt Quy
hoạch vị trí, quy mô và khu chức năng Cảng hàng không quốc tế Long Thành,
Có thể đoán không nhầm rằng, chủ đầu tư trong khi không có thiết kế sơ bộ
của Báo cáo đầu tư, đã sử dụng 2 Quy hoạch đã được phê duyệt trước đó để làm
căn cứ cho Quy hoạch thứ 3 hôm nay.
Lưu ý rằng Quy hoạch thứ nhất và thứ hai, dẫu được phê duyệt, nhưng cũng
chỉ là Quy hoạch.
Trong khi chưa có Báo cáo đầu tư, chưa có thiết kế sơ bộ, thì như phân tích
ở trên, mọi Quy hoạch đều là giả tưởng, không có căn cứ thực. Và từ đó có thể
hiểu ra rằng những thông số của công trình trong các Quy hoach đó chảng qua chỉ
có thể là tưởng tượng vô trách nhiệm của những người dựng lên Quy hoạch.
Hậu quả của sai trái này là thế nào?
Là những thông số lạ lùng trong Báo cáo đầu tư hiện nay. chắc chắn được hình thành từ mấy lần Quy hoạch của
những chuyên gia Quy hoạch, những người không biết gì về thiết kế sân bay.
Điều này có thể dễ dàng chứng minh
bằng một vài con số sau đây:
- Dự báo công
suất sân bay Long Thành 100 triệu hành khách/năm sau năm 2050 là hoàn toàn thiếu cơ sở tính
toán khoa học.
- Suất sử dụng
đất của sân bay Long Thành là 50 ha/ triệu hành khách (5000 ha/100 triệu hành
khách), trong khi các sân bay lớn trên thế giới, suất này chỉ từ 15 đến 25ha/triệu
hành khách, nghĩa là sân bay Long Thành nhiều gấp 2 đến 3,3 lần thế giới.
- Suất sử dụng
đất Giai đoạn 1 của sân bay Long Thành là 102 ha/triệu hành khách (2565 ha/25
triệu hành khách), trong khi các sân bay lớn trên thế giới chỉ từ 15 đến
25ha/triệu hành khách, nghĩa là Giai đoạn 1 sân bay Long Thành nhiều gấp 4 đến 6,6 lần thế giới.
- Suất đầu tư
củasân bay Long Thành, giai đoạn 1 là 312 triệu USD/triệu hành khách (7,8 tỉ
USD/25 triệu hành khách), trong khi các sân bay lớn trên thế giới thấp hơn
nhiều,bình quân chỉ vào khoảng 90 đến 100 triệu USD/
triệu hành khách. Ví dụ, sân bay Suvarnabhumi (Thái Lan) khoảng 90 triệu
USD/triệu hành khách, sân bay Changi của Singapore (thường xuyên được bình chọn
là sân bay tốt nhất thế giới) khoảng 101 triệu USD/triệu hành khách.Như
vậy suất đầu tư giai đoạn 1 của sân ây Long Thành lớn hơn mức bình quân thế
giới hơn 3,1 lần (312/100 = 3,1 lần).
- Riêng sân bay Quốc Tế
Hồng Kông, công suất thiết kế 87 triệu hành khách/năm, đầu tư 20 tỉ USD, suất đầu tư 20 tỉ USD/87
triệu hành khách = 230 triệu USD/ triệu hành khách. Lưu ý rằng suất đầu tư của sân bay quốc tế Hông Kông là cao
nhất thế giời, bởi chi phí rất lớn cho việc san bằng núi, lắp biển, và làm
đường ngầm dưới đáy biển từ thành phố ra hòn đảo sân bay này. Sân bay Long
Thành không mất chi phí san núi lắp biển, con đường giao thông thì đã có công
trình đường cao tốc Sài Gòn - Dầu Giây
chịu chi phí, thế nhưng suất đầu tư của Long Thành vẫn cao hơn sân bay Hồng Kông
tới 312/230= 1,35 lần
Bình luận 5: Trái pháp luật khi tự tiện
quy định “phần kết cấu hạ tầng không có khả năng thu hồi vốn
đầu tư”
Điều hết sức lạ lùng là những người lập Báo cáo đầu tư đã
khẳng định như đinh đóng cột rằng “đầu tư phần kết cấu hạ tầng không có khả năng
thu hồi vốn đầu tư” (trang 48)
Xin hỏi, tại sao “phần đầu tưkết cấu hạ tầng” lại “không có khả năng thu hồi vốn đầu tư”? Luật pháp
nào của Việt Nam nói như vậy? Nghị quyết nào của Đảng Cộng sản VN nói như vây?
Và ai có quyền quyết định không thu
hồi vốn đầu tư?
Đồng vốn đầu tư nhưng không thu hồi có
nghĩa là đồng vốn vứt đi, ai có quyền vứt đồng vốn của Nhà nước, của nhân dân,
ai có quyền tước đoạt đồng vốn của Nhà nước, của nhân dân?
Lưu ý rằng trên thế giới này chỉ có Việt
Nam chúng ta mới có khái niệm “đầu tư phần kết cấu hạ tầng không
có khả năng thu hồi vốn đầu tư”.
Bình luận 6: Trái pháp luật khi tự tiện
quy định “Vốn đầu tư thực hiện sẽ được gắn với các dự án đầu tư cụ thể,
theo nguyên tắc Nhà nước chỉ đầu tư hoặc
hỗ trợ đầu tư phần kết cấu hạ tầng không có khả năng thu hồi vốn đầu tư”
Xin hỏi, tại saolại “theo nguyên tắc Nhà nước chỉ đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư phần
kết cấu hạ tầng không có khả năng thu hồi vốn
đầu tư”?Luật pháp nào của Việt Nam nói như vậy?
Nghị quyết nào của Đảng Cộng sản VN nói như vây? Và ai có quyền quyết định như vậy?
Nhà
nước lấy đâu ra tiền để đầu tư phần này? Báo cáo đầu tư xác định đó là tiền
Ngân sách và tiền vay ODA. Ai cũng biết tiền ngân sách là tiền thuế của dân, vốn
vay ODA cuối cùng cũng lấy tiền thuế của dân để trả nợ, đồng vốn của dân đó tại
sao lại đem đầu tư vào thứ “không có khả
năng thu hồi”?
Đồng vốn của Nhà nước, của nhân dân đóng
góp xây dựng nền tảng cho công trình, thực chất là đóng góp cho giới tư bản tư
nhân kinh doanh, họ thì được thu lời, trong khi Nhà nước và nhân dân không những
không được thu lời mà còn bị tước đoạt hết đồng vốn đó. Tại sao?
Đó là một hành vi bóc lột, còn tệ hại
hơn sự bóc lột tước đoạt của chế độ nô lệ và chế độ phong kiến, sự bóc lột và
tước đoạt mà chủ nghĩa tư bản cũng không giám làm.
Bình luận6: Trái pháp luật khi tự tiện
quy định “khuyến khích (các
Doanh nghiệp tư nhân trong ngoài nước) đầu tư vào các hạng mục thành phần dịch
vụ khai thác, có khả năng thu hồi vốn đầu tư”, còn “Nhà nước chỉ đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư phần kết cấu hạ tầng
không có khả năng thu hồi vốn đầu tư”(trang 48)
Điều lạ lùng là ở đâychủ đầu tư và tác
giả của Báo cáo còn khẳng định rằng các đơn vị tư nhân có quyền kinh doanh lấy
lời tại sân bay Long Thành, còn Nhà nước và Nhân dân thì không.Luật pháp nào của Việt Nam nói như vậy? Nghị
quyết nào của Đảng Cộng sản VN nói như vây? Và
ai có quyền quyết định như vậy?
No comments:
Post a Comment