TS Nguyễn Bách Phúc, Chủ tịch Hội Tư vấn Khoa học Công nghệ và Quản lý HASCON, Viện trưởng Viện Điện – Điện tử - Tin học EEI
Kẹt xe ở Tp.HCM, bài 1: Vì sao nhiều giải pháp không thể thực hiện được?
Kẹt xe ở Tp.HCM, bài 1: Vì sao nhiều giải pháp không thể thực hiện được?
Kẹt xe ở Tp.HCM, bài 2: Tại
sao người dân Tp.HCM “chỉ có thể” hoặc “buộc phải” đi xe gắn máy, mà “không thể”
đi xe công cộng?
Kẹt xe ở Tp.HCM, bài 3: Xin đừng hoang tưởng Metro sẽ là phép màu dứt điểm nạn kẹt xe
Kẹt xe ở Tp.HCM, bài 4: Giải pháp thiết thực cho nạn kẹt xe ở Tp.HCM: Đầu tư xây dựng hệ thống xe buýt phủ khắp thành phố
Kẹt xe ở Thành
phố Hồ Chí Minh, Bài 1:
Vì sao nhiều giải
pháp không thể thực hiện được?
Chuyện
kẹt xe ở Tp.HCM đã được công luận bàn rất nhiều trong hàng chục năm nay. Nhiều
giải pháp đã được đề xuất, nhưng tất cả đều chỉ là những ý tưởng, theo kiểu định
tính, thể hiện ý chí mà không chứng minh định lượng, thành ra không có sức thuyết
phục. Chính vì vậy các cơ quan công quyền cũng như người dân chỉ nghe, chỉ bàn,
mà cuối cùng vẫn không ai có thể chấp nhận giải pháp nào. Kết quả “kẹt” vẫn
hoàn “kẹt”, “tắc” vẫn hoàn “tắc”, hơn nữa “kẹt” và “tắc” ngày càng trầm trọng
hơn.
Những
giải pháp nổi tiếng nhất, đó là:
-
Bắt
buộc các cụm công nghiệp, trường đại học, bệnh viện… di dời khỏi trung tâm Tp.
Giải pháp này nghe thật ngộ nghĩnh, có lẽ những người đề xuất tưởng tượng rằng
sau khi các đơn vị đó dời đi thì khuôn viên của họ sẽ bỏ trống, rào kín lại, không
một bóng người lai vãng, thế là phố phường hết kẹt xe!!! Hơn nữa họ không nghĩ
đến phí tổn di dời, hiệu quả kinh tế, hậu quả xã hội của việc di dời này.
-
Không
cho xe có biển đăng kí tỉnh ngoài lưu thông trong thành phố HCM. Ai cũng biết
đây là một giải pháp ngớ ngẩn, muốn trở lại thời “ngăn sông cấm chợ” với những
hậu quả khôn lường.
-
Xe
có biển số chẵn chỉ được lưu hành vào ngày chẵn, xe biển số lẻ chỉ được lưu
hành vào ngày lẻ. Đây là một “sáng kiến” quái dị đến mức trẻ con cũng có thể nhận
ra.
-
Khu vực nội đô các thành phố lớn, điều kiện được
phép mua ôtô là phải chứng minh có chỗ đỗ xe, phải được
chính quyền cấp quotar mua sắm xe mới, hạn chế xe ô tô đi vào một số khu vực nhất định, một số
ngày nhất định trong tuần. Đây cũng là một “sáng kiến” không giống ai, không có
cơ sở khoa học và pháp lý nào, chẳng qua cũng là góp phần đổ tội cho xe cá
nhân.
-
Xuất
phát từ chỗ cho rằng số lượng xe gắn máy quá nhiều là nguyên nhân gây ùn tắc,
đã đề xuất các giải pháp: hạn chế số lượng xe gắn máy bằng cách quy định mỗi
người chỉ được sở hữu một xe, tăng
thuế tiêu thụ đặc biệt, tăng phí trước bạ, tăng phí đăng giải ký mới; thu phí
môi trường (gây ô nhiễm không khí, tiếng ồn ...); người mua xe phải đóng thêm
tiền bảo hiểm, các loại thuế, phí, phải đấu giá và nộp một khoản tiền để được
quyền lưu hành xe…, gần đây Sở GTVT thành phố còn đề nghị thêm một số ràng buộc
mới: niên hạn sử dụng xe máy ở các thành phố lớn, tiêu chuẩn kỹ thuật đăng kiểm
xe máy, thuế xăng dầu, lệ phí đường và phí đỗ xe, hạn chế lưu thông trên
một số trục chính hoặc một số tuyến nhất định vào giờ cao điểm.
Tất cả những “sáng kiến” này chỉ gói gọn lại là đánh vào túi
tiền người mua xe cá nhân, nhằm hạn chế số người mua xe và sử dụng xe cá nhân.
Những giải pháp hành chính và duy ý chí này không đưa ra cơ sở khoa học để đánh
giá sẽ giảm được bao nhiêu % tình trạng kẹt xe, hiệu quả thế nào đối với tình
trạng kẹt xe và những hậu quả tốt, xấu của nó. Thực chất cũng chỉ là đổ tội
chung chung nạn kẹt xe cho việc sử dụng xe cá nhân.
Thực
ra để có một giải pháp đúng đắn thường phải qua mấy bước: Tính toán mức độ ảnh
hưởng của giải pháp và hiệu quả dự kiến, tính toán đánh giá ưu khuyết điểm của
giải pháp, hiệu quả và hậu quả. Ví dụ đối với giải pháp “Xe có biển số
chẵn chỉ được lưu hành vào ngày chẵn, xe biển số lẻ chỉ được lưu hành vào ngày
lẻ”, sơ bộ đánh giá có thể dễ dàng thấy rằng số lượng xe trên mặt đường sẽ giảm
đi một nửa, nghĩa là mức độ kẹt xe giảm còn một nửa. Chỉ cần ra một lệnh không
mất một đồng chi phí nào mà lại giảm được một nửa số lượng xe trên đường phố
thì phải nói là giải pháp quá hay, quá giỏi. Nhưng khi xét ưu khuyết điểm sẽ thấy
nhiều chuyện cắc cớ sẽ phải xảy ra, một là mỗi người phải sắm thêm 1 chiếc xe gắn
máy nữa và phải cố công “chạy” cho được biển số mới không trùng chẵn - lẻ với
biển số cũ của mình, và kết quả cuối cùng kẹt xe vẫn y như cũ; hai là mỗi người
mua thêm một chiếc xe đạp (không có biển số), hàng ngày đi làm bằng xe máy hoặc
xe đạp luân phiên, như vậy tổng số xe trên mặt đường không tăng lên, nhưng kẹt
xe sẽ tăng lên một hai lần vì tốc độ xe đạp chậm hơn tốc độ xe gắn máy một hai
lần; thứ ba, còn một cách nữa là mỗi người chỉ đi làm một ngày, ở nhà một ngày,
lương chỉ còn một nửa nếu không bị đuổi việc, sản phẩm của toàn thành phố cũng
giảm đi một nửa. Hóa ra thật dễ hiểu, kết cục chẳng ai dám kí lệnh thực hiện giải
pháp “rất hiệu quả” và “không tốn tiền” này!
Tiếc thay hàng
loạt giải pháp đó chưa cái nào trở thành hiện thực. Lý do tại sao?
.
Kẹt xe ở Thành
phố Hồ Chí Minh, Bài 2:
Tại sao người dân Tp.HCM “chỉ có thể” hoặc “buộc phải”
đi xe gắn máy, mà “không thể” đi xe công cộng?
Một điều rất dễ
thấy, rất dễ hiểu, không cần chứng minh dài dòng, là số lượng xe gắn máy ở
Tp.HCM quá nhiều, thống kê mới nhất
có gần 6 triệu xe máy (chiếm 1/3 lượng cả nước). Trên thế giới không có nước nào,
không có thành phố nào lại dùng nhiều xe gắn máy như Tp.HCM. Đó là chưa nói hầu
hết các thành phố lớn của các nước tiên tiến rất hiếm thấy bóng dáng xe gắn
máy.
Vì đâu lại có sự
trái ngược giữa Tp.HCM với các thành phố lớn khác ở các nước tiên tiến? Chúng
tôi chưa thấy một lý giải khoa học nào cho hiện tượng này.
Cũng rất dễ hiểu
khi nói đến kẹt xe ở Tp.HCM, đầu tiên là người ta “đổ lỗi” cho xe gắn máy, và
cũng dễ hiểu đã có hàng loạt đề xuất nhắm vào hạn chế xe gắn máy như đã liệt kê
ở trên.
Lý do theo chúng
tôi hiểu, là chưa tìm được nguyên nhân gốc rễ tại sao người dân Tp.HCM lại chỉ
“thích” đi xe gắn máy mà “không thích” đi xe công cộng, mặc dù đã có nhiều cuộc
vận động rầm rộ, mặc dù hàng chục năm nay thành phố đã chi một khoản tiền trợ
giá rất lớn cho xe buýt, mặc dù ai cũng biết đi xe buýt rẻ tiền hơn nhiều so với
đi xe cá nhân (tính gần đúng: tiền vé xe buýt cho mỗi người khoảng 500 Đồng/Km,
chi phí cho xăng và hao mòn xe của xe gắn máy cá nhân khoảng 1000 Đồng/Km)
Lưu ý rằng, ở
các nước tiên tiến xe ô tô cá nhân rất nhiều nhưng cũng không ít người dù có ô
tô cá nhân nhưng vẫn “thích” đi xe công cộng, số lượng thống kê cho thấy số lượng
người đi xe công cộng nhiều gấp 15-20 lần số lượng người đi xe cá nhân
Chúng
tôi mổ xẻ vấn đề này trong bài thứ 2 này: Tại sao người dân Tp.HCM chỉ “thích”
đi xe gắn máy mà “không thích” đi xe công cộng? Hay nói chính xác hơn: Tại sao
người dân Tp.HCM “chỉ có thể” đi xe gắn máy mà “không thể” đi xe công cộng?
1.
Nếu
dân Tp.HCM bỏ xe gắn máy, đi xe buýt, thì nạn kẹt xe giảm được 5 lần, tức là giảm
500%.
Kẹt xe là gì?
Đơn giản chỉ là số lượng xe trên mặt đường quá nhiều, mỗi xe chiếm 1 khoảng diện
tích của mặt đường, càng nhiều xe diện tích chiếm dụng càng lớn, kẹt là lúc diện tích chiếm dụng phủ hết
diện tích mặt đường.
Xe gắn máy bình
quân rộng 0,7 mét, dài 2 mét, khi chạy trên đường phải có khoảng cách an toàn tối
thiểu với xe bên cạnh là 0,5 mét, với xe phía trước là 2 mét. Như vậy diện tích
1 xe gắn máy chiếm dụng mặt đường khi lưu hành là (0,7m + 0,5m) x (2m + 2m) =
4,8m2. Xe gắn máy có thể chở 1 hoặc 2 người, chúng tôi đã đếm thử ngẫu nhiên
trên đường, thấy rằng bình quân cứ 5 xe đi một người thì có 1 xe đi 2 người, vậy
bình quân gần đúng 1 xe gắn máy chở : (5 xe x 1 người + 1 xe x 2 người) /
( 5 xe + 1 xe) = 7 người/6 xe = 1,17 người/xe.
Như vậy bình quân một người đi xe gắn máy sẽ chiếm dụng diện tích mặt đường
là 4,8m2/1,17 người = 4,1 m2/người.
Một xe buýt
trung bình chở 45 người, rộng 2,5 mét, dài 9 mét, khi chạy trên đường phải có
khoảng cách an toàn tối thiểu với xe bên cạnh là 0,5 mét, với xe phía trước là
3 mét. Như vậy diện tích 1 xe buýt chiếm dụng mặt đường khi lưu hành là (2,5m +
0,5m) x (9m + 3m) = 36m2. Như vậy bình quân một người đi xe buýt sẽ chiếm dụng
diện tích mặt đường là 36m2/45 người = 0,8 m2/người.
Rõ ràng rằng diện
tích mặt đường mà một người đi xe gắn máy chiếm dụng lớn hơn so với 1 người đi
xe buýt là 4,1m2/0,8m2 = 5,13 lần. Từ kết quả này có thể dễ dàng nhận ra, nếu mọi
người không đi xe gắn máy như hiện nay mà tất cả đều đi xe buýt thì mức độ kẹt
xe sẽ giảm đi hơn 5 lần, chính xác là 513%.
Hóa ra nếu làm
được việc này, vẫn ngần ấy con người đi lại, vẫn đường phố ấy của chúng ta, chẳng
những không kẹt xe mà còn rộng thênh thang !
2.
Tại
sao dân các nước tiên tiến thích đi xe công cộng ?
Các thành phố lớn
ở các nước tiên tiến có một hệ thống giao thông công cộng hoàn chỉnh gồm :
xe buýt động cơ diezen, loại nhỏ cỡ 12 chỗ ngồi và loại lớn từ 45 chỗ ngồi trở
lên, xe buýt chạy điện (troleibus), xe điện bánh sắt (tramvai), tàu điện ngầm
(metro)
Ưu việt lớn nhất của hệ thống xe buýt này là phủ gần
hết mọi con đường lớn nhỏ của thành phố, từ bất cứ địa điểm nào trong thành phố
đến trạm xe công cộng gần nhất thường là dưới 300 mét. Điều đó có nghĩa: từ điểm
xuất phát, người dân chỉ phải đi bộ không đầy 300 mét để đến bến xe công cộng;
cũng tương tự, từ bến xe công cộng cuối
cùng đến đích, người dân chỉ phải đi bộ không đầy 300 mét.
Ưu việt thứ hai
của hệ thống xe buýt này là giờ giấc xuất phát tại các bến đỗ khá chính xác,
hành khách có thể chủ động tính toán thời gian của mình theo đúng giờ giấc của
bến xe, vì vậy hầu như không phải chờ đợi ở các bến xe.
Ưu việt thứ ba,
đối với những tuyến xe công cộng phục vụ những con đường nhỏ, thưa thớt dân cư,
chính quyền địa phương có chế độ trợ giúp cho hãng vận tải công cộng, để họ có
thể yên tâm phục vụ. Đồng thời những tuyến này phải đảm bảo nghiêm ngặt giờ giấc
tại các bến đỗ.
Cũng vì hệ thống
xe công cộng quá tốt, thỏa mãn nhu cầu của người dân nên ở đó người ta ít sử dụng
taxi, không có tình trạng các hãng taxi mọc lên như nấm và cạnh tranh nhau quyết
liệt như ở chúng ta.
3.
Tại
sao dân thành phố HCM “không thích” hay “không thể” đi xe buýt?
Đơn giản là sử dụng
xe buýt tại thành phố chúng ta nói chung là vô cùng bất tiện.
Thứ nhất, chúng
ta chỉ có những tuyến xe buýt lớn, chỉ chạy theo những trục đường lớn của thành
phố, mà không có những tuyến xe buýt phủ khắp thành phố. Điều này sẽ gây ra hai
cản trở lớn cho cư dân: Phải đi rất xa từ nơi xuất phát đến bến xe buýt, và
cũng phải đi rất xa từ bến xe buýt cuối cùng đến đích. Những tuyến này chỉ thuận
lợi cho cư dân có những chuyến đi với điểm xuất phát và điểm đích đều nằm dọc
theo các tuyến đó, với khoảng cách dưới 300 mét.
Những cư dân ở
xa các tuyến xe buýt sẽ đi đến các tuyến xe buýt bằng cách nào, chạy xe đạp hay
xe gắn máy đến thì sẽ gửi vào đâu, hay đi xe ôm hoặc taxi, mỗi lần xuất phát tốn
bao nhiêu tiền cho xe ôm hoặc taxi?
Lại còn nông nỗi,
khi xuống bến xe buýt cuối cùng, sẽ đi bằng cách nào để đến đích, chắc sẽ lại
thuê taxi hoặc xe ôm.
Đơn giản chỉ có
vậy cho nên dân thành phố Hồ Chí Minh “không thể” đi xe buýt mà chỉ “có thể” hoặc
“buộc phải” đi xe gắn máy cá nhân, cho dù ai cũng biết ngồi xe buýt an toàn
hơn, rẻ hơn, không lo bụi bặm, mưa nắng.
Theo báo cáo của
Bộ GTVT trình Chính phủ, thì năm 2013 số lượng hành khách xe buýt của thành phố
HCM chỉ chiếm 7% - 8% tổng số hành khách lưu thông trên đường phố. Thống kê này
hoàn toàn phù hợp với tổng diện tích mặt đất dọc theo các tuyến xe buýt của
thành phố với chiều rộng mỗi bên 300 mét, chiếm khoảng 10% diện tích mặt đất của
Tp.HCM.
Với hệ thống xe
buýt này, cho dù chúng ta có rất nhiều giải pháp để vận động người dân đi xe
buýt như: Trợ giá vé, nâng cao chất lượng xe, nâng cao tinh thần và thái độ phục
vụ, tuyên truyền vận động “Nào ta cùng buýt”, thì người dân vẫn cứ thích đi xe
gắn máy, tỷ lệ người đi xe buýt vẫn ko tăng thêm.
Kẹt xe ở Thành
phố Hồ Chí Minh, Bài 3:
Xin đừng hoang
tưởng Metro sẽ là phép màu dứt điểm nạn kẹt xe
Một phương tiện
vận chuyển công cộng vô cùng lợi hại là tàu điện ngầm Metro.
Metro có nhiều
ưu điểm vượt trội so với các phương tiện vận tải công cộng khác. Một là, đi ngầm
dưới đất, không chiếm dụng mặt đường của thành phố. Hai là, không có giao lộ,
không phải chờ đợi, không cần đèn xanh, đèn đỏ, không sợ kẹt đường; để tránh
hình thành giao lộ Metro, người ta nâng hoặc hạ độ sâu của hai tuyến giao nhau.
Thứ ba, nhờ hai ưu điểm trên, tốc độ Metro rất cao, thời gian đi lại được rút
ngắn, rất ít khi xảy ra tai nạn, nhất là không có nạn đụng xe.
Đầu tư cho Metro
rất đắt. Ở các nước tiên tiến bình quân khoảng 100 triệu USD/1Km. Riêng ở Việt
Nam ta thì “đội giá” lên rất nhiều. Ví dụ,
tuyến Metro thứ 5 từ ngã tư Bảy Hiền đến siêu thị Metro quận 2, dài 8,9 Km, cuối
năm 2014 điều chỉnh lại giá đầu tư, tăng từ 833 triệu EURO, thêm 477 triệu EURO
thành 1310 triệu EURO, tương đương 1520
triệu USD, bình quân 170 triệu USD/Km.
Chính vì đầu tư
Metro đắt nên số lượng tuyến Metro của mỗi thành phố thường không nhiều, phụ
thuộc vào diện tích và dân số thành phố. Xem các nước tiên tiến có thể thấy một
con số gần đúng rằng số tuyến Metro bằng số triệu dân. Ví dụ, thành phố 3 triệu
dân thường có 2 đến 3 tuyến Metro. Như vậy Metro không thể phủ khắp thành phố.
Trước khi xây
Metro, người ta đã xây dựng hoàn chỉnh hệ thống giao thông công cộng, phủ kín
khắp thành phố, giúp người dân sử dụng Metro thuận lợi, có thể đi bằng xe công
cộng đến bến Metro mà họ xuất phát, cũng như từ bến Metro cuối cùng của họ đến
đích.
Điều đó cũng có
nghĩa là Metro chỉ có thể phát huy tính ưu việt của nó khi có mạng lưới xe công
cộng phủ khắp thành phố. Còn nếu không có mạng lưới xe công cộng này thì Metro
có ưu việt đến bao nhiêu đi chăng nữa, người dân cũng “không thích” và “không
thể” sử dụng Metro.
Nhiều người viện
dẫn những con số thống kê của nước ngoài, nói rằng metro hàng ngày vận chuyển
hàng chục triệu hành khách, chiếm 70-80% hành khách đi xe công cộng. Từ những
thông tin này, chúng ta tưởng rằng chỉ cần xây dựng một vài tuyến Metro là có
thể phục vụ đi lại cho hàng triệu hành khách. Cũng từ đó, chúng ta đang ra sức
bỏ hàng tỷ USD để xây cho được các tuyến Metro, với hy vọng sẽ có hàng chục triệu
người đi Metro như ở nước ngoài, và từ đó sẽ hết kẹt xe.
Thực ra, ý tưởng
này là hoàn toàn phi thực tế.
Sai lầm là ở chỗ,
người ta xây dựng hệ thống giao thông công cộng hoàn chỉnh trước, rồi mới xây
Metro, còn chúng ta thì làm ngược lại.
Mặc dù Metro có thể chở được hàng triệu hành khách mỗi
ngày, nhưng ở Tp.HCM với hệ thống xe công cộng hiện nay, sẽ có bao nhiêu người
sử dụng Metro, ai sẽ là người sử dụng Metro? Câu hỏi này được giải đáp dễ dàng
giống như trường hợp các tuyến xe buýt hiện hữu của chúng ta, bởi vì một tuyến
Metro xây dựng hết hàng tỷ USD, có khả năng chở hàng triệu người, nhưng thực chất
nó chẳng khác gì một tuyến xe buýt công cộng hiện hữu của chúng ta, nghĩa là chẳng
có mấy người đi.
Kẹt xe ở Thành
phố Hồ Chí Minh, Bài 4:
Giải pháp thiết thực cho nạn kẹt xe ở Tp.HCM: Đầu tư xây dựng hệ thống xe buýt phủ khắp
thành phố
Như ở phân tích ở
bài 1, những giải pháp hành chính và duy ý chí của chúng ta đã không thể đưa lại
kết quả.
Chính vì vậy
chúng ta phải có những biện pháp thực tiễn.
Một là, cải tạo
và nâng cấp hạ tầng, cụ thể là mở rộng mặt đường, xây thêm cầu vượt sông, xây hệ
thống cầu vượt ở những nút giao thông. Những giải pháp này đòi hỏi phải đầu tư
rất lớn. Những năm qua thành phố đã có nhiều cố gắng, đã làm được nhiều việc,
như mở rộng xa lộ Hà Nội, mở rộng nút thắt Bà Quẹo - An Sương, xây Đại lộ Đông
Tây, Đại lộ Nguyễn Văn Linh, mở rộng xa lộ Đại Hàn thành đường Xuyên Á, xây cầu
Thủ Thiêm, làm các cầu vượt ở các nút giao thông Hàng Xanh, ngã 3 Cát Lái, ngã
4 Thủ Đức, ngã 3 Đại Hàn, vòng xoay ngã tư Cộng Hòa – Hoàng Hoa Thám…Tiền đầu
tư này phải đến hàng tỷ USD.
Những đầu tư này
đã góp phần làm giảm kẹt xe, nhưng chưa có một thống kê chính thức là đã giảm
được bao nhiêu % tình trạng kẹt xe của thành phố. Nếu xét theo cảm quan thì có
thể “phán” gần đúng rằng, có lẽ giảm nạn kẹt xe được 10-15% là cùng.
Vậy thì giải
pháp cơ bản nhất, có thể giảm 513% nạn kẹt xe, chính là đầu tư hệ thống xe buýt
hoàn chỉnh, phủ khắp thành phố, tương tự như ở các nước tiên tiến. Lúc đó mọi
người sẽ cất xe gắn máy vào kho và tranh nhau đi xe buýt.
Thử tính sẽ phải
đầu tư bao nhiêu tiền để làm việc này:
Tính tổng số lượng xe buýt cần thiết để thay cho xe
gắn máy
-
Toàn
thành phố hiện có 6 triệu xe gắn máy
-
Số
lượng người đi đường cao nhất trong ngày là ở giờ cao điểm. Chúng ta không có số
lượng thống kê con số đó là bao nhiêu người.
-
Cho
rằng số xe gắn máy được đem ra sử dụng nhiều nhất trong ngày cũng là ở giờ cao
điểm.
-
Cho
rằng tại giờ cao điểm toàn thành phố đã sử dụng 70% tổng số xe gắn máy (còn lại
30% là xe đang hỏng, đang sửa chữa, đang bị giam hoặc chủ xe không sử dụng xe
vào giờ cao điểm…). Như vậy tổng số xe gắn máy có trên mặt đường vào giờ cao điểm
là 70% x 6 triệu = 4,2 triệu xe.
-
Số
người sử dụng xe gắn máy trên toàn thành phố vào giờ cao điểm: ở bài 2 đã tính
ra số hành khách bình quân cho một xe gắn máy là 1,7 người/xe. Vậy tổng số người
là: 4,2 triệu xe x 1,17 người/xe = 4,91 triệu người.
-
Mỗi
xe buýt bình quân chở 45 người (không kể giờ cao điểm có thể chen chúc với số
lượng nhiều hơn). Vậy số xe buýt cần thiết để thay thế cho xe gắn máy trong giờ
cao điểm là : 4,91 triệu người / (45 người/xe) = 0,11 triệu xe = 110.000 xe
buýt.
-
Cho
rằng chỉ có 70% số lượng xe buýt là phục vụ giờ cao điểm thì tổng số xe buýt cần
mua sắm là: 110.000/70% = 157.000 xe buýt
Tính tổng số tiền đầu tư:
-
Giá
bình quân 1 xe buýt 45 chỗ ngồi là 55.000 USD
-
Tổng
số tiền đầu tư mua xe buýt mới: 55.000 USD x 157.000 xe buýt = 8,63 tỷ USD.
-
Cho
rằng các đầu tư cơ sở hạ tầng khác như: bến bãi, xưởng bảo dưỡng, sửa chữa, trạm
chờ…chiếm khoảng 30% đầu tư xe buýt là: 8,63 tỷ USD x 30% = 2,59 tỷ USD.
-
Như
vậy tổng số tiền đầu tư để xe buýt thay thế cho 6 triệu xe gắn máy là: 8,63 +
2,59 = 11,22 tỷ USD
-
Số
tiền này tương đương với tiền xây dựng Metro có chiều dài: 11,22 tỷ USD / (170
triệu USD/Km) = 66 Km
Kết luận:
-
Nếu chúng ta đầu
tư 11,22 tỷ USD để xậy dựng hoàn chỉnh hệ thống xe buýt phủ khắp thành phố, thì
mọi người sẽ “không thích” dùng xe gắn máy nữa, mà sẽ “thích” dùng xe buýt,
tương ứng, mức độ kẹt xe của toàn thành phố sẽ giảm được 5 lần.
-
Số tiền đầu tư
này tương đương với số tiền đầu tư 66 Km đường tàu điện ngầm Metro.
-
Nếu chúng ta cứ
đầu tư 5-6 tuyến Metro, tổng đầu tư cũng trên chục tỷ USD, trong khi chưa xây hệ
thống xe buýt hoàn chỉnh, thì chẳng ai sẽ có thể dùng Metro, mọi người vẫn chạy
xe gắn máy, kẹt vẫn hoàn kẹt.
No comments:
Post a Comment