(Cổng thông tin điện tử vĩnh phúc, 04/01/2005)
Khái niệm kinh tế tri thức ra đời từ năm 1995 do Tổ chức OPCD nêu ra "Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức trở thành yếu tố quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống". Sau đó, năm 2003 chương trình "Tri thức vì sự phát triển" đã đưa ra một khái niệm rộng hơn: "Là nền kinh tế sử dụng một cách hiệu quả tri thức cho sự phát triển KT-XH. Điều này bao gồm việc chuyển giao, cải tiến công nghệ nước ngoài cũng như sự thích hợp hoá và sáng tạo hoá các tri thức cho những nhu cầu riêng biệt". Theo Giáo sư, Viện sĩ Đặng Hữu - Trưởng ban Công nghệ thông tin thì "Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống".
Như vậy, kinh tế tri thức là lực lượng sản xuất của thế kỷ 21. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức là thị trường chất xám. Trong đó, con người là vốn quý nhất. Tri thức là yếu tố quyết định của sản xuất, sáng tạo đổi mới là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Công nghệ mới trở thành nhân tố quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, công nghệ thông tin được ứng dụng một cách rộng rãi. Muốn nâng cao năng suất lao động xã hội, nâng cao chất lượng sản phẩm phải có tri thức, phải làm chủ được tri thức, phải biết vận dụng, quản lý tri thức mới có thể cạnh tranh và đồng thời đảm bảo phát triển bền vững.
Tri thức là yếu tố chủ yếu của sản xuất, nhưng lại rất khác biệt với các yếu tố khác của sản xuất (vốn, tài nguyên...) ở những đặc trưng cơ bản:
- Tri thức không bị hao mòn, giá trị của thông tin và tri thức ngày một tăng.
- Khi chuyển giao tri thức cho người khác, người sở hữu tri thức vẫn còn nguyên vốn tri thức của mình.
- Khi tri thức chuyển giao cho nhiều người thì vốn tri thức được nhân lên gấp bội với chi phí không đáng kể. Do đó, khi nền kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức thì nền kinh tế sẽ là nền kinh tế dồi dào, dư dật.
- Mặt khác, tiếp nhận vốn tri thức lại không dễ như tiếp nhận đồng vốn. Việc chuyển giao, tiếp nhận phải thông qua GD-ĐT. GD-ĐT do đó trở thành ngành sản xuất vốn tri thức - ngành sản xuất cơ bản nhất, quan trọng nhất trong nền kinh tế tri thức.
- Tri thức, như một tư liệu sản xuất chủ yếu trong nền kinh tế thị trường lại do người lao động sở hữu, không tách khỏi người lao động. Như vậy, khi nền kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức thì người lao động - là lao động tri thức - phải thực sự được làm chủ, hợp tác nhau bình đẳng trong tổ chức kinh doanh, tạo ra và phân phối của cải.
- Khi tri thức trở thành vốn chủ yếu của sản xuất thì vấn đề quản lý tri thức trở thành yếu tố cần thiết nhất. Trong nền kinh tế công nghiệp, khâu quan trọng là quản lý năng suất, rồi đến quản lý chất lượng thì ngày nay chuyển sang quản lý thông tin và quản lý tri thức. Quản lý tri thức là quản lý việc tạo ra, truyền tải và sử dụng tri thức sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Hiện nay, các nước phát triển đang có nhiều lợi thế về nắm bắt tri thức, từ đó chi phối nền kinh tế thế giới. Khoảng cách về thông tin tri thức, sự chênh lệch giàu nghèo và bất bình đẳng giữa các nước, thậm chí giữa các nhóm người trong cùng một nước đang gia tăng nhanh chóng. Nhưng chính kinh tế tri thức là chiếc chìa khoá vàng để các nước đang phát triển vươn lên bằng trí tuệ của mình để tránh tụt hậu và bắt kịp xu hướng phát triển chung của toàn cầu. Đối với chúng ta, để thực hiện NH-HĐH cần có lực lượng cán bộ và lao động có tri thức. Đây chính là vấn đề nâng cao kiến thức và trình độ nguồn nhân lực, chú trọng vai trò của thông tin tri thức thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và công nghệ thông tin (máy vi tính, Internet...). Để hội nhập trong khối và toàn cầu, ngoài các chuẩn mực đã được quốc tế hoá cần nâng cao trình độ và nhận thức của người dân về vai trò của hội nhập. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay xu thế toàn cầu hoá là một kết quả tất yếu khách quan về sự phát triển KHKT thế giới.
Thách thức lớn nhất đối với nước ta hiện nay là trình độ chung về hiện đại hoá nông nghiệp còn thấp, thiếu công nghệ hiện đại, năng suất và hiệu quả sản xuất nông nghiệp tương đối thấp. Khi gia nhập AFTA và WTO, chúng ta phải đương đầu với cạnh tranh quốc tế do toàn cầu hoá mậu dịch đem lại.
Khoa học sinh học, khoa học công trình cơ điện nông nghiệp, khoa học kinh tế và quản lý nông nghiệp là những bộ phận chủ yếu của hệ thống KHKT nông nghiệp hiện đại, nó trợ giúp đắc lực cho việc xây dựng hệ thống sản xuất nông nghiệp hiện đại và kinh tế quốc dân phát triển theo hướng kinh tế tri thức và thông tin. Trang bị kỹ thuật nông nghiệp tập trung tất cả các thành tựu tiên tiến thuộc các lĩnh vực cơ khí, thuỷ lợi, vật liệu mới, điện tử, điều khiển tự động.... vào các khâu sản xuất. Sản xuất nông nghiệp trong nhà kính, nhà lưới, trong các trang trại đều dựa vào công nghệ sinh học, công nghệ điều khiển. Các nhà máy chế biến nông - lâm sản, hệ thống kho tàng bảo quản đều được vận hành qua mạng.
Cùng với việc biến đổi về cơ cấu kinh tế là quá trình chuyển đổi về cơ cấu xã hội, lực lượng lao động được tri thức hoá, công nghệ khoa học, công nghệ tri thức chiếm đa số cũng là thách thức lớn. Ở nước ta, hiện nay tỷ lệ lao động nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ trên 70%, tỷ lệ nguồn nhân lực lao động có trình độ cao còn rất thấp. Trên 90% doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ có 5% lao động có trình độ đại học. Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp chỉ có 1,5% lực lượng lao động được qua đào tạo. Ngày nay, muốn nâng cao năng suất lao động xã hội, nâng cao chất lượng sản phẩm phải có tri thức mới có thể cạnh tranh và đảm bảo phát triển bền vững.
Hạt nhân kinh tế tri thức là sáng tạo tri thức mới. Hạt nhân sáng tạo tri thức là sáng tạo kỹ thuật mới - muốn đào tạo kỹ thuật mới phải có nhân tài. Do đó, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài, nắm bắt ngay những kỹ thuật tiên tiến hiện đại, ứng dụng sáng tạo và điều kiện cụ thể của nước ta là một trong các động lực chủ yếu để thúc đẩy sự nghiệp CNH-HĐH đất nước trong thời đại thông tin, toàn cầu hoá và hội nhập hướng tới nền kinh tế tri thức.
Kinh tế tri thức là vận hội. Sử dụng kinh tế tri thức và kỹ thuật thông tin để CNH-HĐH có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kinh tế cả nước ta, của tỉnh ta. Đổi mới cơ chế chính sách hoàn thiện môi trường pháp lý, đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, tăng cường năng lực KHCN là những yếu tố thúc đẩy phát triển kinh tế tri thức.
Với đường lối đổi mới của Đảng, với sức mạnh tinh thần và trí tuệ của các dân tộc trên địa bàn tỉnh, chúng ta có đủ điều kiện để từng bước phát triển kinh tế tri thức, thúc đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH, phấn đấu đưa Vĩnh Phúc trở thành một tỉnh "Giàu có, phồn thịnh vào bậc nhất ở miền Bắc" như Bác Hồ đã căn dặn.
Phạm Huy Thụy Phó Chủ tịch
Liên hiệp Hội KHKT Vĩnh Phúc
No comments:
Post a Comment