Thursday, October 2, 2014

Những bắt cập của Khoa học Công nghệ biển Việt Nam



Bài viết của TSKH Trần Quang Thắng, Phó Chủ tịch Hội Tư vấn KHCN&QL HASCON, Viện trưởng Viện Kinh tế và Quản lý IEM, Ủy viên Hội đồng Nhân dân TP.HCM tại Diễn đàn Kinh tế biển trong Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam 2013.
Việt Nam có Biển Đông rộng lớn, có bờ biển dài trên 3.200 km, có trên 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ ở thềm lục địa và hai quần đảo ngoài khơi là Hoàng Sa và Trường Sa, có nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng.
Chính quyền Việt Nam cũng đã có những ưu ái nhất định cho kinh tế biển và khoa học công nghệ biển, từ phía chủ trương, chính sách.
Song khoa học công nghệ (KHCN) biển còn không ít bất cập.
Trước hết nó rất chậm đổi mới về cơ chế quản lý, thiếu chiến lược và chính sách KHCN riêng, nên KHCN biển chưa thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế biển cũng như đáp ứng yêu cầu bảo đảm chủ quyền biển, đảo.
Các hạn chế có thể được nêu ra như:
-         Các sản phẩm được làm từ những chương trình, dự án và kể cả công trình KHCN cấp nhà nước không phải cái nào cũng là “đơn đặt hàng” từ chính nhu cầu sản xuất, kinh doanh và quản lý nên “thị trường” KHCN biển ở nước ta phát triển rất chậm, cơ chế tài chính cũng chưa phù hợp với đặc trưng nghề biển, một nghề đòi hỏi xuất đầu tư lớn song lại phải chịu nhiều rủi ro. Nguồn kinh phí đầu tư cho KHCN biển bị thiếu trầm trọng.
-         Lực lượng cán bộ mỏng, phân tán, thiếu cán bộ chuyên gia đầu ngành ở những hướng chuyên sâu, mũi nhọn quan trọng. Trong khi đó, việc đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ cán bộ làm KHCN biển còn nhiều bất cập, cơ sở và quy mô đào tạo nhỏ lẻ và các định hướng, chương trình đào tạo về biển chưa toàn diện, thiếu cập nhật và chưa được tiêu chuẩn hoá.
-         Còn khoảng trống trong nghiên cứu : vấn đề nghiên cứu sinh khoáng của Biển Đông hầu như vẫn còn bỏ ngỏ. Một số công trình ven bờ hoặc trên các đảo cũng mới chỉ mang tính mô tả chứ không rút ra được quy luật gì về quá trình sinh khoáng. Các vấn đề liên quan đến kết hạch sắt – mangan cũng chưa có nghiên cứu nào đáng kể. Các nghiên cứu về gas hydrat cũng chỉ mới mang tính lý thuyết, dự đoán.
-         Các nghiên cứu về địa chất, cấu trúc, kiến tạo địa động lực khu vực Biển Đông thường bị bỏ qua hoặc bị xem nhẹ.
-         Thiếu một chiến lược tổng quát về khoáng sản năng lượng biển, chưa xây dựng được bản đồ về tiềm năng khoáng sản năng lượng cho toàn vùng biển một cách chính xác. Chiến lược tìm kiếm dầu khí chưa thật sự rõ ràng, còn phụ thuộc nhiều vào các công ty nước ngoài. Nghiên cứu sinh vật, sinh thái vùng biển sâu và đảo xa bờ còn chậm và lúng túng, thậm chí bất lực trước yêu cầu ngăn chặn sự suy thoái nguồn lợi, các hệ sinh thái, môi trường biển…
-         Thiếu các công trình nghiên cứu khoa học về biển có giá trị, có tính ứng dụng thực tiễn cao và và đều được thực hiện dưới sự giúp đỡ của nước ngoài như Pháp, Mỹ, Trung Quốc và Nga…
-         Thiếu trang thiết bị và điều kiện tài chính khiến nước ta chưa thể tiến hành nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản ngoài biển xa mà chỉ làm được ở những vùng ven bờ, nơi có độ sâu 30 m nước trở lại
-         Nhiều ngành kinh tế biển vẫn đang khai thác bằng phương pháp truyền thống hiệu quả thấp là chủ yếu.
-         Một số lĩnh vực quan trọng để phát triển nền kinh tế biển trong phạm vi thềm lục địa của Việt Nam còn “bỏ ngỏ” và chưa được xem là một dạng tài nguyên như nghiên cứu địa chất công trình đáy biển, địa chất khảo cổ học, nghiên cứu khôi phục lại cổ địa lý, cổ đại dương học, sự tiến hóa của thềm lục địa làm bài học để hướng về tương lai.
-         Đặc biệt, còn thiếu một công trình nghiên cứu khoa học về chính sách, xã hội biển mang tầm chiến lược, làm “điểm tựa” cho sự phát triển bền vững biển và hải đảo.
-         Chúng ta chưa có tài liệu quy hoạch, khai thác, sử dụng vùng biển đảo. Công việc quản lý biển đảo lâu nay vẫn chỉ dựa vào Luật Đất đai và một số luật ngành như Thủy sản, Hàng hải…. Như vậy, công cụ pháp lý để quản lý nhà nước trong lĩnh vực này còn rất mờ nhạt.
-         Nguyên nhân lớn nhất dẫn tới những “khoảng trống” trong nền khoa học công nghệ biển Việt Nam là thể chế để quản lý ngành còn chưa thống nhất, chưa tạo thành sức mạnh tổng hợp. Những vấn đề khác như thiếu cơ sở đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư trang thiết bị, xây dựng cơ sở dữ liệu… làm cho nền khoa học công nghệ biển Việt Nam thiếu và yếu.
Từ việc nhận thức được các tồn tại yếu kém nói trên, hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ cho giai đoạn từ nay đến năm 2020. Đồng thời Đảng đã ban hành nghị quyết TW6 khóa XI về “Phát triển Khoa học và Công nghệ phục vụ CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế”, và sẽ trình Dự thảo Luật KH&CN sửa đổi tại kì họp Quốc hội tháng 5, 6 năm 2013.
Để phát triển thành công nền kinh tế biển ở nước ta, cần phải khắc phục các yếu kém và hạn chế nêu trên, ngoài ra rất cần phải thiết lập một chiến lược phát triển tổng thể, dài hạn, huy động đúng và đủ các nguồn vốn và nguồn lực cần thiết, học hỏi và tiếp thu các mô hình kinh tế biển thành công của Singapore, Hàn Quốc, Malaysia v.v…
Việc đổi mới phương thức đầu tư sẽ được cụ thể hóa trong Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi). Đây là lần đầu tiên trong luật chúng ta khẳng định Nhà nước duy trì mức tối thiểu 2% ngân sách cho hoạt động KH&CN. Tuy nhiên, con số này quá nhỏ bé so với nhu cầu phát triển của KH&CN. Trên thế giới, ngân sách quốc gia thường chỉ đáp ứng 1/3, 1/4, thậm chí 1/10 tổng nhu cầu của hoạt động KH&CN, phần còn lại là đóng góp từ xã hội, mà chủ yếu là từ các doanh nghiệp.

No comments:

Post a Comment