Bài viết của TS. Nguyễn Trần Dương Phó Chủ tịch Hội Tư vấn HASCON, Nguyên Thư ký HĐKH Tp.HCM tại Diễn đàn Kinh tế biển trong Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam 2013.

- Biển, kinh tế biển – các hệ thống mở và động
Biển và Đại dương thế giới có diện tích 360 triệu km2, chiếm 71% diện tích trái đất, chứa 1,5 tỷ m3nước (97,3% lượng nước của hành tinh), sức sản xuất nguyên khai 500 tỷ tấn sinh khối/năm (riêng sản lượng cá biển 600 triệu tấn/năm, hiện mới khai thác 80 triệu tấn/năm) cũng như chứa đựng gần như tất cả các loại tài nguyên khoáng sản đã phát hiện trên đất liền với trữ lượng cực lớn, những nguồn năng lượng tái tạo quy mô hàng tỷ KW… Không gian biển cũng là một trong những yếu tố quan trọng cho phát triển kinh tế. Sự hình thành các đường thông thương trên biển vòng quanh trái đất, xuyên Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Đại Tây Dương đã tạo mối liên kết, đồng thời kích hoạt sự phát triển, mở rộng những khu công nghiệp, dịch vụ, đô thị lớn quy mô toàn cầu. Vận tải đường biển cho tới nay vẫn chiếm ¾ tổng khối lượng hàng hóa trao đổi hàng hóa thế giới.
Trong thời đại hiện nay, những quốc gia - có biển cũng như không có biển - đều hiểu rằng muốn giải quyết nhiều vấn đề cốt yếu của kinh tế – xã hội bảo đảm cho sự tồn tại, tăng trưởng và cao hơn – phát triển bền vững – không có con đường nào khác ngoài việc kết hợp chặt chẽ giữa khai thác hợp lý, có hiệu quả tiềm năng của đất liền với tiềm năng của Biển. Tuy nhiên, cho tới nay hiểu biết của loài người về Biển còn quá ít (so với những gì Biển có thể mang lại). Từ đó, nhiều nơi, nhiều quốc gia chủ yếu mới chỉ có điều kiện sử dụng, khai thác những tài nguyên gần bờ.
Từ nhu cầu cấp bách quy mô toàn cầu, từ những khả năng khoa học – kỹ thuật đã, đang và sẽ được tạo ra trong 20 – 30 năm tới, có thể thấy rằng thế kỷ XXI thực sự sẽ là “Thế kỷ của Biển và Đại dương”.
Vì thế, lẽ tự nhiên, chúng ta cần tiếp cận những vấn đề kinh tế Biển như những vấn đề thuộc những hệ thống mở và động, đặc biệt là cho giai đoạn 50 năm đầu thế kỷ XXI – giai đoạn chuyển tiếp quy mô thiên niên kỷ của chúng ta cũng như loài người.
2. Tiềm năng
Tiềm năng trên vùng lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam
Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam nằm gần như ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, có biên giới đất liền dài 3.730 km.
Với 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa trên biển Đông, các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam có điểm cực Nam ở vĩ độ 5025’ Bắc, điểm cực Đông ở kinh độ 117020’ Đông, điểm cực Tây ở kinh độ 101057’ Đông.
Trên lãnh thổ Việt Nam có tới 2.860 sông lớn, nhỏ với tổng lượng dòng chảy khoảng 870 tỷ m3/năm, tải một lượng bùn cát ước khoảng 300 triệu tấn/năm. Trong toàn bộ hệ thống sông ngòi có 2 hệ thống sông lớn nhất:
- Hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình: sông Hồng bắt nguồn từ Vân Nam (Trung Quốc) dài 1.140km, đoạn chảy qua Việt Nam dài trên 500km với lưu vực 21.787 km2, tổng lượng dòng chảy khoảng 150 tỷ m3/năm. Sông Hồng có 2 phụ lưu lớn là sông Đà 543km, sông Lô 277km. Sông Cầu dài 290km, sông Thương dài 150km, sông Lục Nam dài 178km, 3 sông này hợp thành sông Thái Bình.
- Hệ thống sông Cửu Long: là đoạn cuối của sông Mê Kông (dài 4.220km) chảy qua Việt Nam 220km, chia làm 2 nhánh là sông Tiền và sông Hậu đổ ra biển Đông theo 9 cửa, với lưu vực 4.900km2, tổng lượng dòng chảy là 500 tỷ m3/năm, mỗi năm mang theo hàng tỷ tấn phù sa.
Việt Nam có 3 mặt giáp biển, Đông và Nam giáp biển Đông (thuộc Thái Bình Dương) mà phần ăn sâu vào phía Việt Nam là vịnh Bắc Bộ, Tây Nam giáp vịnh Thái Lan.
Bờ biển Việt Nam dài khoảng 3.260km kể từ Móng Cái ở phía Bắc đến Hà Tiên ở phía Tây Nam (chưa kể bờ biển của các hải đảo).
Đoạn bờ biển từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Đồ Sơn (Hải Phòng) là cánh cung núi đá vôi Đông Triều lún xuống bị nước biển phủ lên biến các ngọn núi thành hàng nghìn hòn đảo muôn hình, muôn vẻ, tạo nên vùng thắng cảnh Hạ Long được UNESCO xếp vào danh sách các thắng cảnh thiên nhiên đẹp nhất thế giới. Đồ Sơn – một bán đảo thon dài gồm 9 ngọn núi thấp kế tiếp nhau chạy ra biển, tạo ra một khu du lịch, nghỉ ngơi, tắm biển nổi tiếng. Phần còn lại của bờ biển phía Bắc là vùng ven biển đồng bằng Bắc Bộ, nhìn chung bằng phẳng.
Đoạn bờ biển Trung bộ kể từ Sầm Sơn (Thanh Hoá) đến ven biển Duyên hải miền Trung bờ biển trải dài và uốn lượn đan xen nhiều dạng hình cồn cát cao hoặc cát bồi do phù sa của các con sông đổ ra biển. Trên nhiều chặng có những dãy núi nhỏ ngang ra biển tạo nên những bán đảo nhỏ, những vùng Vịnh, bến cảng, những bãi tắm, nghỉ mát, du lịch nổi tiếng như dãy Hoành Sơn với đèo Ngang, dãy Hải Vân có đèo cao gần 500m; các cảng Cửa Lò (Nghệ An), Đà Nẵng, Dung Quất (Quảng Ngãi), Quy Nhơn, Vịnh và cảng Cam Ranh; các bãi biển du lịch, nghỉ mát Sầm Sơn, Cửa Lò, Non Nước, Nha Trang, Mũi Né, Hòn Rơm …
Bờ biển phía Nam có một vùng núi nhỏ nhô ra, đó là Vũng Tàu – một khu du lịch, nghỉ mát nổi tiếng, còn lại là những bãi bồi ở các cửa sông Cửu Long, những rừng được ngập mặn ở Cà Mau (Minh Hải) và cuối cùng là một nhóm núi đá vôi ở Hà Tiên (Kiên Giang) phần ở trên bờ, phần nằm dưới biển tạo ra một cảnh thiên nhiên gần giống như Hạ Long của phía bắc.
Ven biển Đông và trên thềm lục địa Việt Nam có khoảng gần 4.000 hòn đảo, riêng vùng Vịnh Bắc Bộ đã có tới gần 3.000 đảo, trong đó các đảo lớn là Cát Bà, Cát Hải, Bạch Long Vĩ. Gần bờ biển Trung bộ có hàng trăm đảo khá lớn, trong đó tiêu biểu là đảo Hòn Mê, Hòn Mát, Cù lao Chàm, Cù lao xanh, Hòn Tre, Cồn Cỏ … ở giữa biển Đông có quần đảo Hoàng Sa gồm hơn 30 đảo đá, đảo san hô trên một vùng rộng khoảng 15.000 km2. Cách Hoàng Sa 240 hải lý về phía Nam là quần đảo Trường Sa gồm hơn 100 đảo lớn, nhỏ trên một vùng biển rộng 180.000 km2. Cách Vũng Tàu gần 100 hải lý có 12 đảo lớn, nhỏ đó là Côn Đảo.
Trên vùng vịnh Thái Lan có 195 đảo, tổng diện tích 693 km2, gồm các cụm đảo Hòn Khoai, Hòn Chuối, Hòn Đá Bạc, các quần đảo Nam Du, Bà Lụa, Hải Tặc, cụm đảo Phú Quốc…Đảo Phú Quốc là đảo lớn nhất cả nước, rộng 593 km2 (gần bằng diện tích Singapore – 648 km2).
Hiện nay trong vùng Duyên hải Việt Nam có 266 cảng biển lớn nhỏ, trong đó có 9 cảng có khả năng cải tạo, nâng cấp để tiếp nhận tàu 50000DWT (loại tàu có tải trọng trung bình ở thế giới) hoặc tàu container đến 3000TEUs. Theo quy hoạch đến 2010, định hướng đến 2020, các cảng được phân chia thành 8 nhóm địa lý, với 3 trung tâm chính gọi là các cảng cửa ngỏ Quốc tế để tiếp nhận tàu trọng tải lớn, phục vụ cho các khu kinh tế trọng điểm. Hệ thống cảng biển đến năm 2010 có khả năng thông qua 100 triệu tấn hàng hóa. Tuy nhiên, chỉ mới đến năm 2006, lượng hàng hoá thông qua các cảng đã lên 154,498 triệu tấn, tăng 11,2% so với năm 2005.Trong đó hng container đạt 3,42 triệu TEUs, tăng 11,84% so với 2005, riêng Tân cảng Sài Gòn xếp dở 1,47 triệu TEUs. Như vậy, mức tăng trưởng bình quân trong 10 năm (2000-2010) l 10-12% năm. Dự kiến đến năm 2020 sẽ có khoảng 340 triệu tấn hàng hóa thông qua các cảng biển Việt Nam, tương đương với việc phải xây thêm 15-20km bến cảng mới, cần khoảng 60000 tỷ đồng (bằng 4 tỷ USD) để đầu tư.
Tiềm năng hội nhập kinh tế biển toàn cầu
Từ điểm cực Bắc đến điểm cực Nam trên đất liền (theo đường chim bay) dài 1.650km, khoảng cách từ biên giới phía Đông sang biên giới phía Tây (không kể thềm lục địa) nơi rộng nhất 600km (Bắc bộ), 400 km (Nam bộ), nơi hẹp nhất 50km (Quảng Bình). Khoảng cách từ Hà Nội đến Răng Gun 1.120km, Hà Nội đến Manila 1.770km; khoảng cách từ TP Hồ Chí Minh đi Singapo 1100km, đến Giacácta 1.890km. Việt Nam còn là một đầu mối giao thông từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương.
Ngoài những nhân tố đã được thảo luận nhiều, cần lưu ý tới một số tiềm năng có thể trở thành hiện thực trong giai đoạn tới 2030 sau:
Gordon Wu, một nhà thầu khoán xây dựng ở Hồng Kông - “vua của cơ sở hạ tầng” châu Á, đã gây ấn tượng khi nêu lên những hiệu quả của một hệ thống xuyên quốc gia lúc còn là sinh viên ở Princeton vào những năm 1950: hệ thống sẽ kết chặt Trung Quốc và Ấn Độ qua một siêu xa lộ của dòng sông Mê Kông chạy từ Tây Nam Trung Quốc vào bán đảo Đông Dương và Đông Nam Á và từ đó qua Burma vào Ấn Độ, một nhánh đi qua Malasia, nối liền vùng đất châu Á với các hòn đảo lớn Sumatra và Java của Indonesia. Đây sẽ là một hệ thống siêu xa lộ xuyên lục địa, một dự án khổng lồ nhất, là bệ phóng để đưa phần lớn châu Á vào tầng lớp của các Quốc gia giàu có trong thế kỷ 21, giống như là hệ thống xa lộ liên bang để liên kết và tăng sức mạnh cho nước Mỹ hiện đại trong những năm 1950. Một kế hoạch như thế thực sự đang định hình ở châu Á, một mạng lưới đường khắp châu Á có thể là tác nhân kích thích lớn nhất cho sự hiện đại hoá châu Á lục địa.
Một dự án khác rất được chú ý, được Thủ tướng Nga V.Putin nêu trong Hội thảo quốc tế “Bắc cực – lãnh thổ của đối thoại” (diễn ra tại Iaroslav, 9.2011) – dự án phối hợp xây dựng Tuyến đường biển Bắc, tuyến gần nhất nối Châu Á - Thái Bình Dương với Bắc Âu (giảm 3,9 ngàn hải lý – 34% - so với tuyến hiện hành nối Rotterdam – Iokohama qua Ấn Độ Dương; giảm từ 33 ngày di chuyển xuống còn 20, và rõ ràng là giảm chi phí vận chuyển). Khả năng vận tải trên tuyến này dự kiến ở mức 50 triệu tấn/năm.
3. Thời cơ mới
Trong “Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 - 2020” triển mạnh kinh tế biển tương xứng với vị thế và tiềm năng biển của nước ta, phát triển kinh tế biển với bảo đảm Quốc phòng, An ninh, bảo vệ chủ quyền vùng Biển. Phát triển nhanh một số khu kinh tế, khu công nghiệp ven Biển, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp năng lượng, đóng tàu, xi măng, chế biến thủy sản chất lượng cao...Đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, tạo thành các trung tâm kinh tế Biển mạnh, tạo thế tiến ra Biển, gắn với phát triển đa dạng các ngành dịch vụ, nhất là các ngành có giá trị gia tăng cao như dịch vụ xuất, nhập khẩu, du lịch, dịch vụ nghề cá, dịch vụ dầu khí, vận tải...Phát triển cảng và vận tải biển, sông - phát triển các đội tàu, công nghiêp đóng mới và sửa chữa tàu biển...Phát triển kinh tế đảo phù hợp với vị trí, tiềm năng và lợi thế của từng đảo”.
Với những định hướng chiến lược nêu trên, việc lập các dự báo, kịch bản, họach định chiến lược, quy hoạch và kế hoạch cho những thời hạn tương ứng đòi hỏi phải thống nhất và nhất quán phương pháp tiếp cận xuất phát từ những đặc thù của kinh tế biển và khung cảnh, xu thế đang và sẽ hình thành trong phạm vi quốc gia cũng như quốc tế.
Quá trình đổi mới của kinh tế Việt Nam diễn ra trong khung cảnh đặc biệt của nền kinh tế thế giới giai đoạn vừa qua – giai đoạn tái cấu trúc và chuyển hướng về chất, mang tính lịch sử quy mô thiên niên kỷ, vì thế, những thực tiễn phát triển trong thăm dò, khai thác, chế biến, dịch vụ, xuất nhập khẩu sản phẩm dầu khí; tăng trưởng và phát triển của Tp.HCM, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa-VũngTầu (thời gian qua, trên nền cơ sở vật chất kỹ thuật chủ yếu của hệ thống cảng Sài Gòn, còn sau 2015, khi hệ thống cảng Thị Vải, Cần Thơ hoạt động hiệu quả, sẽ ra sao?), Đà Nẵng, một số tỉnh Bắc sông Hồng thời gian gần đây...cho phép bước đầu nhận dạng một số thời cơ mới (chưa thành nhận thức phổ biến) là: .
+ Trong nhiều lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế, quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá đi theo theo một quan niệm mới, tạo ra các hệ thống sản xuất – kinh doanh linh hoạt trên nền liên kết mạng giữa các phần tử (nhân tố) nhỏ và vừa, phân đoạn-phân loại thị trường trên phạm vi thị trường toàn cầu hoá và khu vực hoá.
+ Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, Doanh nghiệp có thể mua với giá thấp nhất ở bất cứ nơi nào trên trái đất và bán với giá cao nhất ở bất cứ nơi đâu. .
+ Nơi nào có được cơ sở hạ tầng phát triển và nguồn nhân lực đáp ứng được hoặc có khả năng đáp ứng kịp thời những đòi hỏi về chất lượng, cơ cấu và số lượng thì nguồn vốn và công nghệ sẽ chuyển tới đó. Vì thế, cơ hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tham gia thị trường toàn cầu là cơ hội của tất cả các Quốc gia, tất cả các Doanh nghiệp tại các nước phát triển cũng như đang phát triển, nếu có chiến lược phù hợp tập trung vào việc nắm bắt thời cơ – thời cơ trở thành động lực hàng đầu trong phát triển.
+ Chiến lược phát triển và sự lựa chọn hướng mũi nhọn phải tập trung vào việc lựa chọn phát triển các sản phẩm, dịch vụ có lợi thế so sánh nội sinh (DRC), lợi thế so sánh biểu hiện (RCA), có quy mô trên 1 tỷ USD/năm – quy mô đủ lớn để hình thành các thị trường sản phẩm dịch vụ ngành, liên ngành, liên địa phương, hội nhập thị trường quốc tế theo xu thế phân khúc, phân đoạn, phân loại sản phẩm, dịch vụ).
4. Phương pháp
Trong những điều kiện hiện nay, đối với những đối tượng dự báo liên quan đến phát triển bền vững kinh tế biển, cần và chỉ nên áp dụng các phương pháp dự báo theo các thời cơ đột phá(thay vì chủ yếu chỉ dùng các phương pháp ngoại suy hoặc mô hình không còn hữu dụng như hiện nay).
No comments:
Post a Comment