Thursday, October 2, 2014

Phát triển xanh lam ở Biển Đông: Thực trạng và thách thức


PGS_TSKH_Nguyen_Tac_AnBài viết của PGS TSKH Nguyễn Tác An, Thành viên Hội đồng Khoa học Quản lý Hội Tư vấn KHCN&QL HASCON, Chủ tịch Ủy ban Hải dương học liên chính phủ của Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Kỹ thuật Biển Việt Nam,  Nguyên Viện trưởng Viện Hải Dương học Nha Trang tại Diễn đàn Kinh tế biển trong Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam 2013.
Phát triển xanh lam ở Biển Đông: Thực trạng và thách thức

Phát triển xanh trên đất liền, xanh lam trên biển và đại dương là những mô hình mới, có khả năng giải quyết các thách thức mang tính toàn cầu như biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, an ninh năng lượng và nhiều vấn đề xã hội khác.
Việt Nam đang nỗ lực xây dựng chiến lược phát triển phù hợp, hòa nhập với xu thế mới của thời đại.Việt Nam có đủ tiềm năng, cơ sở và quyết tâm chính trị để xây dựng một Quốc gia xanh, phát triển bền vững không chỉ trên lục địa mà còn cả ở vùng lãnh hải Biển Đông.
Căn cứ vào kết quả nghiên cứu thực tế, đồng thời vận dụng nhiều phương pháp phân tích, tổng quan các bài học kinh nghiệm tổ chức phát triển kinh tế biển ở trong và ngoài nước, các đặc điểm sinh thái kinh tế vùng biển Đông, chúng tôi muốn giới thiệu, trao đổi với các đồng nghiệp ở trong và ngoài nước một số ý kiến về “phát triển kinh tế xanh lam” ở Việt Nam.
Phát triển kinh tế biển nói chung, kinh tế xanh lam nói riêng, không thể quá nhấn mạnh đến lợi ích trước mắt, phải tính toán dài hơi, phải có sự chuẩn bị kỹ về phương pháp luận, về phương pháp tổ chức triển khai và tiềm lực.
1. Phát triển xanh, kinh tế xanh và kinh tế xanh lam là xu thế của thời đại
Phát triển xanh là sự phát triển hài hòa giữa kinh tế, xã hội và môi trường. Định hướng phát triển xanh đang là ưu tiên hàng đầu của các quốc gia, hướng đến cải thiện đời sống con người và tính công bằng xã hội, đồng thời giảm thiểu những hiểm họa môi trường và tình trạng khan hiếm tài nguyên là những tiền đề gây sự “bất ổn” chính trị, xã hội.
Kinh tế xanh là một trong những tiếp cận ưu tiên mang tính thời đại trong quá trình phát triển theo mô hình “kinh tế sinh thái hiện đại”. Đây là là nền kinh tế có hướng chủ đạo đầu tư vào con người, tự nhiên và xã hội. Nó “hài hòa với môi trường”, có khả năng tạo ra những “cỗ máy xanh” cho nền kinh tế, tìm kiếm lợi nhuận một cách thân thiện với môi trường”. Kinh tế xanh tập trung nghiên cứu sử dụng các công cụ kinh tế để giải quyết hợp lý những vấn đề của xã hội, đến sự thịnh vượng và làm thay đổi hành vi của con người, hướng tới những lối sống bền vững hơn.
Đây vốn  là một trong những mục tiêu chính trị và  pháp lý, vì thế, nó là một lĩnh vực nghiên cứu triển khai toàn diện, bao gồm các mặt về tài chính công cộng, kinh tế chính trị và  ứng dụng thực tiễn. Những lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế xanh là nhắm đến là nguồn năng lượng tái tạo, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin thế hệ mới, sản xuất thiết bị công nghệ cao, vật liệu tiên tiến, các thiết bị, công cụ sử dụng nhiên liệu thay thế, các công nghệ thân thiện với môi trường và tiết kiệm năng lượng…
Kinh tế xanh lam là nền kinh tế xanh liên quan đến các vùng ven biển, biển, đại dương và hải đảo.
Mặc dầu, cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa đầy đủ về kinh tế xanh lam, nhưng trong định hướng phát triển xanh lam ở ven bờ, biển và đại dương, có một số hướng mang tính chủ đạo đang được quốc tế khuyến cáo[1], như bảo vệ và phục hồi các hệ sinh thái, đa dang sinh học biển, phát triển thị trường carbon, tăng cường quản lý đáy biển (khai khoáng, dầu, khí, cáp dẫn…), thay đổi phương thức quản lý nghề cá và nuôi trồng hải sản ở các cấp trong khu vực và quốc gia, bình đẳng, không bao cấp và khai thác bền vững, thích ứng với quá trình dâng cao mực nước biển và biến đổi khí hậu, quản lý tổng hợp vùng bờ, tăng cường sử dụng bền vững nguồn lợi sinh vật, kể cả ứng dụng các công nghệ sinh học, xác nhận và chấp nhận khả năng hấp thụ, lưu giữ carbonnic của đại dương và vùng ven bờ, tổ chức thị trường carbon xanh, tăng cường xử lý ô nhiễm, chủ yếu là các chất dinh dưỡng trong biển và đại dương theo cơ chế thị trường, phát triển đột phá nguồn năng lượng tái tạo từ biển và đại dương…
Về thực chất, kinh tế xanh lam nhằm xác định lại quá trình phát triển của hệ thống kinh tế biển trong mối quan hệ tổng thể, biện chứng với vùng lãnh thổ, lãnh hải, chứ không chỉ quan quan tâm đến việc giải quyết những vấn đề về môi trường đơn thuần. Kinh tế xanh tập trung chú ý đến nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế khác nhau, ngay từ khâu cung cấp nguyên vật liệu, năng lượng, cho đến quy trình tái chế, xử lý chất thải và sản phẩm sạch, từ sản xuất nông nghiệp cho đến công nghiệp, xây dựng, giao thông, các công trình phúc lợi, dịch vụ…
Như vậy, kinh tế xanh, với thuộc tính tự nhiên về sự đổi mới, sáng tạo, sẽ thúc đẩy cùng lúc các lĩnh vực phát triển theo hướng “xanh hóa”. Không chỉ dừng lại như một hoạt động kinh tế thông thường, kinh tế xanh còn có khả năng giải quyết triệt để các mối quan hệ giữa các lĩnh vực, từ sản xuất, nghiên cứu, giáo dục và cả các yếu tố xã hội, văn hoá trong một mối liên hệ biện chứng.
Thúc đẩy sự phát triển quy hoạch của vùng lãnh thổ, lãnh hải theo định hướng kinh tế xanh, xanh lam, có nghĩa là thúc đẩy và khuyến khích hơn nữa, sự hiệp đồng hiệu quả giữa các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp với các trường đại học, các cơ quan nghiên cứu và quản trị phát triển xã hội.
Các hoạt động nghiên cứu, sản xuất xanh ngày càng được chú ý đặc biệt trên khắp thế giới. Đây đang được coi  là “xu thế tất yếu của lịch sử phát triển”, là “tiếp cận tổ chức phát triển sản xuất để tạo ra các “sản phẩm” và “dịch vụ” “xanh, sạch”, có khả năng ngăn ngừa, giảm thiểu và hạn chế những thiệt hại gây ra cho môi trường, như ô nhiễm nước, không khí, đất, biển và đại dương, cho đến tất cả những vấn đề liên quan đến chất thải, tiếng ồn và những tác động không mong muốn đến các hệ sinh thái, đến sức khỏe của con người và tiếc kiệm được năng lượng cũng như các nguồn tài nguyên thiên nhiên và phát huy tối đa các giá trị văn hóa, xã hội…”
Kinh tế xanh có 3 đặc trưng cơ bản trong nguyên lý tồn tại và phát triển[2]. Thứ nhất là nền kinh tế ‘sạch’, mang hàm lượng trí tuệ cao. Thứ hai là nền kinh tế ‘hài hòa’ – xanh hóa cho phát triển, phát triển để xanh hóa. Thứ ba là bản thân quá trình phát triển xanh cũng đã mang lại nhiều giá trị môi trường, xã hội và kinh tế, càng xanh hóa, lợi ích kinh tế càng cao.
Để đánh giá kinh tế xanh, người ta dùng tiêu chí GDP xanh. Đó là GDP trừ đi chi phí tiêu dùng tài nguyên và mất mát về môi trường do các hoạt động kinh tế. Mặc dù việc thực hiện GDP xanh hiện tại còn một số khó khăn về kỹ thuật như việc xác định giá trị của các yếu tố môi trường, các vấn đề xã hội….
Tuy nhiên các chuyên gia cũng đã đưa ra một số giải pháp về học thuật cho các vấn đề này. Tiêu chuẩn đánh giá sự phát triển của một vùng, một quốc gia sẽ thay đổi khi thực hiện tính GDP xanh.
Trước đây sự tăng trưởng thuần túy về kinh tế là tiêu chuẩn duy nhất đánh giá thành tựu kinh tế. Còn GDP xanh sẽ đánh giá toàn diện các mặt tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường.
Số liệu thống kê theo tiêu chí GDP xanh, vì vậy chắc chắn không chỉ phản ánh thực chất sự tăng trưởng của kinh tế mà còn chỉ ra các tổn thất môi trường, xã hội mà sự tăng trưởng kinh tế có thể gây ra. Việt Nam cũng đã đề xuất một số các chỉ tiêu giám sát và đánh giá sự phát triển kinh tế bền vững gồm: chỉ số phát triển con người (HDI), chỉ số bền vững môi trường (ESI), hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (ICOR) và mức độ góp phần giảm mạnh tỷ lệ đói nghèo[3]
Hiện nay, hoạt động kinh tế ở đại dương và các vùng biển (dầu khí, vận tải, cảng biển, nghề cá, du lịch, nghỉ dưỡng, năng lượng tái tạo, làm ngọt nước nước biển, các dịch vụ…) có doanh số hàng năm, khoảng 3-6 nghìn tỷ USD[4].
Tổng giá trị chức năng, dịch vụ sinh thái (khí hậu, nước, đất, dinh dưỡng…) từ các hệ sinh thái biển lớn hơn doanh thu hàng năm khoảng 3-7 lần, ước tính khoảng 21 nghìn tỷ USD/năm[5].
Sự phát triển xanh lam, bền vững của đại dương đang phải đối mặt với 4 vấn đề cốt lõi: nghề cá thiếu bền vững; khí hậu toàn cầu thay đổi và axit hoá đại dương; ô nhiễm và chất thải; mất nơi cư trú, suy giảm đa dang sinh học và các loài sinh vật ngoại lai1.
Nhận thức về những ngành kinh tế biển quan trọng ở Việt Nam
Theo các chuyên gia APEC (2004), kinh tế biển và đại dương bao gồm 9 lĩnh vực trọng yếu: 1) Dầu khí (khoáng sản); 2) Nghề cá/nuôi trồng hải sản (nguồn lợi sinh vật, kể cả thực vật biển); 3) Vận tải biển (hàng hải, cảng, đóng tàu); 4) Phòng thủ (an ninh quốc phòng - dịch vụ quốc gia); 5) Công trình biển (công trình bảo vệ bờ, phục hồi, lấn biển); 6) Du lịch, nghỉ dưỡng (dịch vụ thư giãn, giải trí); 7) Chế tạo (thiết bị, máy, y khoa…); 8) Dịch vụ biển (vẽ bản đồ, đo đạc, tư vấn); 9) Nghiên cứu biển và giáo dục. Giá trị kinh tế của nhóm 1- 4 có thể xác định bằng hệ thống thống kê chuẩn của quốc gia. Còn lại, nhóm 5-9 thì khó định rõ, thông tin của các dữ liệu hết sức khác nhau giữa các nền kinh tế.
Phát triển kinh tế bền vững và bảo vệ chủ quyền lãnh hải là công việc dài hơi. Điều quan trọng hàng đầu là trước khi hoạch định các kế hoạch phát triển và bảo vệ biển, phải có sự chuẩn bị đầy đủ 3 việc:1) Điều tra, đánh giá các quá trình sinh thái - hải dương học, các tai biến, các giá trị chức năng, dịch vụ, các dạng tài nguyên, nguồn lợi và môi trường; 2) Phát triển các dạng dịch vụ công ích và tư vấn; 3) Xây dựng công trình biển, cơ sở hạ tầng thiết yếu.
Đánh giá các giá trị kinh tế thường căn cứ vào 3 chức năng của biển và đại dương đối với sự phát triển của loài người[6]: 1) Cung cấp vật chất, năng lượng; 2) Chức năng sinh thái và dịch vụ: tiếp nhận và xử lý các nguồn thải từ lục địa, từ các hoạt động kinh tế, xã hội quốc phòng ngay trên biển và đại duong, các dịch vụ văn hóa (đời sống tinh thần, tâm linh….cơ sở để phát triển các ngành kinh tế như giải trí, giáo dục, du lịch, nghỉ ngơi), dịch vụ điều tiết (điều hòa khí hậu, lưu trữ khí carbonic, kiểm soát lượng mưa, lọc nước, lọc không khí, bảo vệ con người trước thiên tai, xói lở, lũ lụt), dịch vụ hỗ trợ (sự hình thành đất, nước, bảo đảm cho các quá trình sinh trưởng sinh vật, các chu trình sinh hóa địa…) và 3) Vai trò mặt bằng, giá đỡ cho mọi hoạt động kinh tế, xã hội và quốc phòng.
Ở Việt Nam, kinh tế biển chủ yếu là công nghiệp khai thác dầu khí, vận tải biển, nghề cá, nuôi trồng hải sản, du lịch, nghĩ dưỡng và quốc phòng. Quy mô kinh tế (GDP) biển và vùng ven biển Việt Nam hiện nay ước tính chiếm khoảng 47- 48% GDP cả nước, trong đó GDP của kinh tế “thuần biển”, chiếm khoảng 20-22% tổng GDP cả nước.
Trong các ngành kinh tế biển, đóng góp của các ngành kinh tế diễn ra trên biển chiếm tới 98%, chủ yếu là khai thác dầu khí, hải sản, hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển), du lịch biển.
Các ngành kinh tế có liên quan trực tiếp tới khai thác biển như đóng và sửa chữa tàu biển, chế biến dầu khí, chế biến thủy, hải sản, thông tin liên lạc... bước đầu phát triển, nhưng quy mô còn rất nhỏ bé (chỉ chiếm khoảng 2% kinh tế biển và 0,4% tổng GDP cả nước)[7].
Đặc biệt, ngành vận tải biển, bao gồm hệ thống cảng biển là yếu tố, động lực phát triển bền vững kinh tế trong khu vực. Cụm cảng Việt Nam có lợi thế là nằm trên một trong những tuyến đường thương mại biển lớn nhất thế giới, trong vùng nguyên liệu địa phương, lao động dồi dào. Việc mở rộng cảng ở vùng này còn tạo điều kiện cho sự phát triển du lịch, dịch vụ.
Tuy nhiên, trong thực tế, kinh tế cảng biển Việt Nam đang hoạt động không hiệu quả[8], đang phải đối mặt với những khó khăn như các cơ sở hạ tầng, các mối liên kết- logistic và cách thức tổ chức, khai thác thiếu tính cạnh tranh.
Các chỉ tiêu hàng hóa thông qua cảng trên đầu người rất thấp so với các nước trong khu vực (chỉ bằng 1/140 của Singapore, 1/7 của Malaysia và 1/5 của Thái Lan)7. Ước tính hàng năm có doanh thu từ 6-8 tỉ USD, tuột khỏi tay các đơn vị kinh doanh dịch vụ hàng hải bản địa, đang bị nước ngoài chi phối[9].
Các chuyên gia nhận định một cách khái quát rằng, sự phát triển của kinh tế biển Việt Nam còn quá nhỏ bé và nhiều yếu kém so với tiềm năng và so với các nước trong khu vực, như Nhật Bản là 468 tỷ USD, Hàn Quốc là 33 tỷ USD…
Thêm vào đó, tác động đến môi trường sinh thái, xã hội do phát triển kinh tế biển cũng đang là vấn đề nổi cộm. Kết quả sử dụng phương pháp điều tra, phỏng vấn và sử dụng mô hình Gutman (1999) để xử lý kết quả thăm dò ngẫu nhiên các ý kiến của chuyên gia cho thấy những nhận thức ban đầu của các chuyên gia về tầm quan trọng và vai trò cũng như tác động của một số ngành kinh tế biển trong quá trình phát triển (bảng 1)[10].
Bảng 1. Ma trận thông tin về vai trò kinh tế, tính hiệu quả xã hội và sự tác động xấu
đến môi trường của một số ngành kinh tế biển theo phiếu thăm dò chuyên gia
(thang điểm 100, xử lý theo mô hình Gutman, 1999)10
Ngành kinh tế biển

Vai trò
Kinh tế
(A)
Hiệu quả xã hội
(B )
Tác động xấu đến môi trường (C)
Tổng số
điểm
G=A+B-C
Xếp thứ tự mức độ ưu tiên chọn lựa
Cảng biển
89
85
20
154
2
Giao thông vận tải biển (11% GDP biển)
82
67
36
113
5
Đóng tàu
15
12
40
- 13
11
Dầu khí
(64% GDP biển)
90
95
30
155
1
Du lịch, nghỉ dưỡng (9% GDP biển)
65
70
17
118
4
Khai thác cá biển và hải sản (14% GDP biển)

85
75
10
150
3
Nuôi trồng hải sản
70
75
40
1 0 5
6
Chế biến hải sản
70
45
45
70
7
Xử lý chất thải
17
8
5
20
9
Lấn biển
15
20
8
27
8
Khai khoáng và vật liệu xây dựng
1 0
15
35
-10
10
Những ngành nghề khác
?
?
?
?
?
Qua bảng 1, ta thấy phần lớn các ý kiến của chuyên gia đều không đánh giá cao nghành kinh tế khai khoáng, vật liệu xây dựng và đóng tàu.
2. Hiện trạng phát triển kinh tế xanh lam ở Biển Đông và triển vọng
Triển khai cơ chế phát triển sạch (CDM) trong công nghiệp
CDM là cơ chế phát triển sạch, sử dụng công nghệ kỹ thuật tiên tiến, tuân thủ quy trình và điều kiện nghiêm ngặt để giảm khí phát thải, bảo vệ môi trường. Việt Nam là một trong 10 nước có tiềm năng phát triển cơ chế phát triển sạch (CDM).
Trong 8 năm qua Việt Nam đã có 135 tài liệu thiết kế dự án CDM được phê duyệt; 34 dự án được đăng ký tại Ban Chấp hành Quốc tế về Cơ chế Phát triển Sạch; hai dự án được cấp chứng chỉ phát thải[1].
Trong thời gian qua, Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN) là đơn vị đi đầu triển khai cơ chế phát triển sạch trong sản xuất. PVN hàng năm khai thác trên 24 triệu tấn dầu qui đổi từ hàng chục mỏ dầu/khí khác nhau
Hiện PVN đã có nhà máy lọc dầu Dung Quất và đang xây dựng hai tổ hợp lọc hóa dầu khác, có các nhà máy nhiệt điện, thủy điện dự kiến có thể sản xuất tới 30% sản lượng điện quốc gia vào năm 2015.
PVN cũng đã và sẽ có hai nhà máy sản xuất phân đạm và đang xây dựng ba nhà máy sản xuất cồn sinh học công suất 100.000tấn/nhà máy.
Như vậy PVN có tiềm năng dồi dào và phong phú để triển khai các dự án cơ chế phát triển sạch (CDM) trong các hoạt động của mình, góp phần tích cực vào việc giảm thiểu phát thải GHG ở Việt Nam11.
Phục hồi các hệ sinh thái biển, phát triển nghề cá và nuôi trồng hải sản bền vững
Việt Nam đã tăng cường hỗ trợ chương trình phục hồi các hệ sinh thái biển quan trọng (rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn)[2], công tác khuyến ngư và ứng dụng tiến bộ trong khai thác, nuôi trồng và bảo quản sản phẩm sau thu hoạch; xây dựng các mô hình khai thác nghề mới có hiệu quả.
Tập huấn kỹ thuật khai thác, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong điều hành sản xuất. Xây dựng mô hình làng nghề nuôi cá theo tiêu chuẩn sạch, tạo ra sản phẩm phục vụ cho thị trường nội địa, nhất là cho các du khách tham quan du lịch vùng quê và xuất khẩu.
Triển khai các mô hình nuôi sinh thái như nuôi tôm hùm kết hợp với vẹm Xanh (vùng vịnh Vân Phong). Hiệu quả: chi phí thức ăn giảm được 30% so với các phương pháp nuôi truyền thống, tăng tỷ lệ sống vật nuôi hơn 90%, chất lượng môi trường được cải thiện rõ rệt: làm giảm hàm lượng hữu cơ trong tầng đáy cột nước và trong trầm tích; xử lý ô nhiễm vi sinh trong trầm tích12.
Nuôi tôm kết hợp trồng lúa ở vùng đất nhiễm măn ven biển (Bình Đại, Bến Tre) nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu[3].
Hiệu quả kinh tế của mô hình luân canh tôm lúa được phân tích, đánh giá từ khía cạnh các giá trị tài nguyên tự nhiên đáp ứng nhu cầu cho canh tác tôm lúa, khả năng bổ sung dinh dưỡng cho cây lúa từ các chất thải của nuôi tôm (là tài nguyên được khai thác, sử dụng) và khả năng xử lý, tự làm sạch của môi trường đối với chất thải trong nuôi tôm và trồng lúa (là tài nguyên đồng hóa chất thải).
Kết quả đánh giá cho thấy, giá thành tài nguyên môi trường vào khoảng 50-170 triệu đồng cho 1 tấn tôm sản phẩm, tùy theo phương thức canh tác. Giá thành lợi nhuận tài nguyên môi trường khoảng 25-100 triệu đồng cho 1 tấn sản phẩm. Đó là những giá trị kinh tế từ trung bình đến cao đối với môi trường ven biển nhiệt đới.
Trước mắt, để chủ động phát triển mô hinh kết hợp tôm lúa ứng phó với BĐKH, nên tiếp tục thử nghiệm, triển khai áp dụng một số phương án quản lý nuôi hải sản, đang được nhiều nước áp dụng, có tính khả thi cao ở các vùng đất nhiễm mặn ven biển.
Một là quản lý môi trường trong luân canh tôm - lúa dựa vào cơ sở sinh thái học. Hai là tổ chức quản lý tổng hợp vùng nhiễm mặn luân canh tôm, lúa. Ba là tổ chức quản lý chất lượng sản phẩm lúa - tôm trong mô hình luân canh theo tiêu chuẩn quốc tế, như tiêu chuẩn của "Thực hành nông nghiệp tốt", hoặc theo hệ thống quản lý chất lượng cao toàn cầu như Global GAP (Good Agricultural Practices)13.
Phát triển du lịch sinh thái biển
Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, quản lý phát triển bền vững hoạt động du lịch biển là nhằm xây dựng cơ chế, chính sách và công cụ phù hợp, dựa trên cơ sở khoa học, kinh tế, xã hội đặc thù của quốc gia.
Mục tiêu là xây dựng phát triển ngành kinh tế dịch vụ, du lịch biển đảo có vị thế, có khả năng cạnh tranh cao trong hệ thống kinh tế của Việt Nam, của khu vực và quốc tế.
Trước mắt, phải tổ chức, triển khai các giải pháp quản lý phát triển du lịch phù hợp như Quản lý hoạt động du lịch dựa vào đặc điểm cảnh quan địa lý và sinh thái học; Phát triển du lịch trong chương trình quản lý tổng hợp vùng ven biển; Xây dựng các chỉ thị quản lý phát triển hoạt động du lịch[4].
Triển vọng phát triển kinh tế xanh
Tại Diễn đàn “Kinh tế xanh trong bối cảnh phát triển bền vững ở Việt Nam”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đưa ra Khung chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 và Tầm nhìn đến 2050.
Trong Khung chiến lược, ba mục tiêu chính được nhấn mạnh như giảm phát thải khí nhà kính, xanh hóa sản xuất và xanh hóa lối sống và tiêu dùng được đặc biệt quan tâm.
Trong đó, một số chỉ tiêu cụ thể như giảm chất lượng phát khí thải nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 10% đến 20% cho giai đoạn 2011 – 2020 và từ 35% - 45% cho giai đoạn 2020 – 2030; giá trị sản phẩm các ngành công nghệ cao trong GDP đạt khoảng 42% - 45% trong giai đoạn 2010 – 2020 và 80% trong giai đoạn 2020 – 2030.
Ngoài ra, 100% các cơ sở sản xuất kinh doanh mới thành lập phải áp dụng công nghệ sạch hoặc trang bị các thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải.
Việt Nam đang nỗ lực thực hiện mục tiêu thay đổi mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, gắn tăng trưởng với công bằng xã hội, giảm đói nghèo và bảo vệ môi trường.
Việt Nam đang quyết tâm chuyển đổi và phát triển nền kinh tế xanh lam ở Biển Đông, dựa vào các lợi thế: vị trí địa chiến lược - kinh tế, vào quá trình hội nhập và sự cải thiện các chính sách, thể chế, pháp luật trong quản lý, nhằm tạo ra những tiền đề cơ bản để đạt được sự phát triển hài hòa, theo nguyên tắc phát triển dài hơi, xem xét các bài học và kinh nghiệm của thế giới và dựa vào các nguồn lực, trí tuệ và bản sắc dân tộc Việt Nam.
Tổ chức phát triển xanh lam, Việt Nam sẽ được cái gì?
Theo các chuyên gia [5]: 1) phát triển xanh lam không chỉ mang lại sự giàu có, phồn vinh mà còn thúc đẩy tăng trưởng cao theo nguyên tắc “lấy Biển nuôi Đất liền”[6];
2) Tạo ra mối liên kết hài hòa trong việc xóa đói, giảm nghèo tận gốc rễ với bảo vệ, phục hồi tốt hơn các nơi cư trú, tăng cường nguồn lợi biển và đa dạng sinh học;
3) Chuyển đổi sang mô hình phát triển xanh lam, công ăn, việc làm tăng mạnh, xóa bỏ được nạn thất nghiệp vốn là “căn bệnh kinh niên” trong nền kinh tế “nâu” (mô hình kinh tế công nghiệp hóa, nguồn năng lượng nhân tạo, phân tán, dựa vào các hệ sinh thái nhân tạo..).
Chúng ta hy vọng, kinh tế xanh sẽ tạo ra cơ hội cho Việt Nam tăng trưởng bền vững, có tính cạnh tranh cao trong hệ thống kinh tế, tạo công ăn, việc làm theo mục tiêu của thế giới “10 năm, 100 sáng kiến và 100 triệu việc làm”, tăng thu nhập thực sự cho mọi người, cải thiện đời sống cho người dân một cách thiết thực, bảo đảm an toàn môi trường (hiện nay thu nhập bình quân năm của người Việt Nam chỉ trên dưới 1,100 USD, thua xa thu nhập bình quân trên thế giới 10.000 USD/đầu người).
Theo ý kiến của các chuyên gia kinh tế, phát triển xanh sẽ giúp Việt Nam tăng trưởng cả “xương” lẫn “ thịt”, chứ không chỉ tăng trưởng “xương” như hiện nay ( người dân chẳng được lợi lộc mấy do tăng trưởng ). Sự tăng trưởng kinh tế biển xanh sẽ mang lại lợi ích thiết thực cho quốc gia và cho cả “túi tiền” thực tế của người dân.
Thực tiễn tại các nước cho thấy, việc thúc đẩy tăng trưởng xanh hay quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh tạo ra tiềm năng to lớn cho phát triển bền vững, giảm đói nghèo và tăng cường sức mạnh bảo vệ an ninh chủ quyền lãnh hải.
Riêng đối với các quốc gia đang phát triển, tăng trưởng xanh còn tạo đà cho một bước “nhảy vọt” để phát triển kinh tế mà không cần theo con đường phát triển kinh tế “ lỗi thời” “ô nhiễm trước, xử lý sau”.
Phát triển kinh tế xanh nói chung, kinh tế xanh lam, nói riêng, cần có cơ hội và nhiều điều kiện tự nhiên, môi trường, sinh thái cũng như  chính trị, xã hội .
Việt Nam còn phải làm rất nhiều việc trong quá trình xanh hóa nền kinh tế của mình ở Biển Đông, nơi có nhiều tiềm năng và là “trụ cột chính” cho sự phát triển bền vững và hưng thịnh.
3. Những thách thức và giải pháp
Bối cảnh phức tạp của Biển Đông
Biển Đông là khu vực “năng động” trong phát triển kinh tế vì có lợi thế vị trí địa lý, giàu tài nguyên, chính vì vậy , đây là một trong  5 khu vực “nóng”, “nhạy cảm” trong các mối quan hệ quốc tế” do những “ đòi hỏi phi lý, những hành động trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường quyền”17.
Đây thực sự là mối nguy cơ “ đe dọa hòa bình và an ninh khu vực “ trong đó có cả “ an ninh, an toàn và tự do hàng hải”[1] , là thách thức lớn cho sự phát triển kinh tế thương mại toàn cầu.
Có thể nói vị trí Địa Chiến lược của Việt Nam, của các quốc gia xung quanh Biển Đông đã gắn liền với “sinh mệnh” sống còn của mỗi đất nước.
Rất nhiều chuyên gia cho rằng, “một nước nhỏ mà vì “số phận” phải nằm kề một nước khổng lồ thì dù có nhiều thuận lợi về các phương diện  khác cũng khó tránh vòng cương tỏa về kinh tế, xã hội và văn hóa… của người láng giềng lớn”[2].
Và chính vòng cương tỏa ấy đặt ra những ràng buộc nhất định trong các chính sách đối nội, đối ngoại và đường lối, chính sách phát triển và quá trình “xanh hóa” đất nước.
Vấn đề đã đặt ra ở Biển Đông về “lợi thế” hay “bất lợi “ về mặt địa lý hoặc “ngọt ngào hay cay đắng” về kinh tế, đều do năng lực vận dụng lợi thế vị trí địa – chiến lược của mỗi nước trong “bàn cờ Biển Đông mà ra”.
Vai trò của các giá trị địa lý đối với sự phát triển quan trọng đến mức mà đã có những học giả coi đó như “lời nguyền địa lý” [3], như “định mệnh” không thể tránh (không ai có thể di dời một quốc gia), là “định phận tại thiên thư” của mỗi nước, “không thể thay đổi, không thể thoái thác”[4].
Những vị trí địa lý có nhiều lợi thế cạnh tranh hay là vị trí địa - chiến lược, địa chính trị, địa kinh tế tốt... luôn luôn đối mặt với thách thức tiềm tàng tranh chấp và xung đột 18,20. Thực tế đó đã và đang được chứng minh ở Biển Đông.
Trong hoạch định sách lược phát triển kinh tế, xã hội, nhất là phát triển “xanh lam”, chúng ta cần phải “hiểu và thấu hiểu” hơn nữa những thách thức  thực tế, có những nhận thức đúng về các giá trị địa lý, đánh giá đúng các đặc điểm Địa Chiến lược, làm cơ sở khoa học cho các chính sách, đường lối chính trị phát triển đất nước trong mọi tình huống và thời điểm.
Phân tích, giới thiệu khía cạnh thách thức do bối cảnh phức tạp của Biển Đông hiện nay, nhằm tìm sự đồng thuận về kiến thức, nhận thức, cùng cộng đồng có “cái nhìn xác thực về sự vận động không ngừng của địa kinh tế và địa chính trị toàn cầu nói chung, ở Biển Đông nói riêng, để không thụ động rơi vào nguy cơ, không bị lạc lỏng trên trường quốc tế và đặc biệt quan trọng là để tìm ra khả năng biến nguy cơ hoặc thách thức thành thời cơ” 20 và để “vận dụng một cách tối ưu các giá trị địa chiến lược ở Biển Đông để quốc gia sinh tồn, phát triển bền vững và phú cường” 18.
Vị trí địa lý Biển Đông, cũng đã mang đến cho Việt Nam nhiều lợi thế, đặc biệt có ít nhất hai lợi thế so sánh có tính cạnh tranh cao trong phát triển xanh lam.
Một là các giá trị địa chiến lược, như đã nêu trên, hai là đã cung cấp mặt bằng lãnh hải rộng lớn với các nguồn tài nguyên đa dạng, phong phú6 và không gian phát triển lý tưởng, đặc biệt là có “mặt tiền”, với đường bờ biển dài hướng ra Biển Đông, là “cửa mở” để hội nhập,phát triển thương mại, thu hút đầu tư trong phát triển, xanh hóa nền  kinh tế biển
Khủng hoảng nhân văn và những “lệch lạc” trong văn hóa phát triển
Trong  giai đoạn hiện nay, sự phát triển của nhân loại đang phải đối đầu với thách thức do Khủng hoảng nhân văn – về những gía trị văn hóa, đạo đức cũng như tâm linh – với quy mô khắp nơi trên thế giới, với sự đồng hóa của những tập tục tiêu dùng và sản xuất không bền vững bởi tác động của toàn cầu hóa.
Đây  thực sự cũng là “nổi lo” và “rào cản” cho quá trình “xanh hóa” ở Việt Nam.
Vai trò “nền tảng” văn hóa có trong phát triển bền vững kinh tế, xã hội và bảo vệ an ninh chủ quyền của quốc gia đã được đề cập và công bố rộng rãi [5].
Giá trị văn hóa là đại lượng khó xác định, chưa có những quy chuẩn trong hệ thống thống kê của quốc gia, nhưng không phải không thể định lượng được. Đã có những công trình công bố về giá trị kinh tế “dịch vụ văn hóa “của các hệ sinh thái tự nhiên”, ví dụ, 1km2 biển ở Singapore tạo ra 26,8 triệu USD/năm[6].
Quan trọng nhất, trong nghiên cứu, lượng giá các giá trị thuộc “văn hóa” là cần phải làm rõ “góc độ” nghiên cứu, tiếp cận đánh giá.
Từ những “góc độ” và trình độ khác nhau sẽ có những đánh giá, kết luận không giống nhau. Văn hóa có đặc tính “đa dạng”, do đó, trong thực tế phát triển hiện nay, có tồn tại rất nhiều các “góc độ” khác nhau trong tiếp cận đánh giá.
Ngay như việc đánh giá “Văn hóa Biển, Đảo Việt Nam, văn hóa biển đảo ở miền Bắc, miền Trung, niềm Nam… và các giá trị của nó trong phát triển”, cũng còn rất nhiều vấn đề, nhiều ý kiến...
Đó là điều đương nhiên, là thuộc tính của khoa học xã hội, của các hoạt động “văn hóa”…. Trước mắt, trong việc đánh giá “mức độ thách thức của khủng hoảng văn hóa” chúng tôi xin phép được chia sẻ vài ý kiến về phương pháp luận.
Tiếp cận hiệu quả trong nghiên cứu là tiếp cận hệ thống. Đối với nghiên cứu các vấn đề liên quan đến văn hóa cũng vậy.
Tuy nhiên, trong nghiên cứu, đánh giá các vấn đề về xã hội, về văn hóa, nhất là khí phân tích, xác định các giá trị kinh tế, các ý nghĩa và tác động của đại dương, của biển, đảo các chuyên gia có kinh nghiệm thường khuyên chúng ta là “… Phải biết cách “dừng chân trên mặt đất, để giải quyết các vấn đề một cách thức tế, tránh xa được những mục tiêu không tưởng, hoang đường”.
Đó là lời khuyên của Frances Cairncross (Biên tập viên Môi trường, tạp chí The Economist, Mỹ), tác giả của tài liệu lượng giá Trái Đất (2000)[7]: để hiểu được giá trị phát triển của đại dương, biển, đảo, phải dựa vào các quan điểm về kinh tế.
Điều này đặc biệt có ý nghĩa cho các nhà quản lý và các chính khách, vì họ quen sử dụng các khái niệm kinh tế để phân tích các quyết định về chính sách.
hứ hai là phát biểu của Tân Tử Lăng (nguyên là cán bộ nghiên cứu và giảng viên quân sự cấp cao, Đại học Quốc phòng Trung Quốc): “bất cứ nhân vật vĩ đại nào cũng bất lực trước các quy luật kinh tế, chỉ có thể thuận theo, không thể chống lại”.
Thứ ba là ý kiến của Pierre Bourdieu (1995) (nhà kinh tế xã hội học người Pháp), trong tổ chức nghiên cứu phát triển, phải coi “văn hóa nhân văn cũng là một loại vốn như 3 loại vốn phổ biến khác trong hoạt động kinh tế (vật thể, con người và tài nguyên)”.
Chính vì thế trong công thức tính toán đánh giá mức độ phát triển bền vững (xanh lam) (và cả giá trị GDP), người ta cần phải đưa vốn xã hội, văn hóa vào trong các  mô hình tăng trưởng kinh tế.
Nói điều này, để chúng ta thấy, mặt mạnh về tổ chức, triển khai các hoạt động về văn hóa, có tư cách pháp nhân để tiếp cận đến một nguồn vốn khổng lồ, vô tận. Không bảo dưỡng vốn văn hóa (để di sản suy thoái, làm mất bản sắc văn hóa dân tộc, làm lệch lạc chuẩn mực văn hóa ứng xử, kinh doanh..) sẽ làm mất “hình ảnh”, “thương hiệu” của Việt Nam trong phát triển.
Diễn đàn Kinh tế Thế giới (2010) đã đề xuất châm ngôn: “Suy tính lại, thiết kế lại, và xây dựng lại”  trong quá trình tái cấu trúc lại nền kinh tế thế giới, đã nhấn mạnh đến vai trò văn hóa, đạo lý trong phát triển. Cần phải cân bằng giữa tất cả các mục tiêu phát triển, vì xét cho cùng thì văn hóa mới là nền tảng vững chắc nhất của sự phát triển. Mọi sự phát triển về vật chất sẽ không còn ý nghĩa khi chúng ta đánh mất những giá trị tinh thần, những giá trị chân-thiện-mỹ.
Chúng ta nên “Văn hóa hóa” trong các hoạt động kinh tế, chứ không nên làm ngược lại, là “kinh tế hóa” các hoạt động văn hóa.
Chúng ta phải có chính sách, giải pháp xây dựng, giới thiệu, quảng bá hình ảnh quốc gia, hình ảnh địa phương Việt Nam với 4 tiêu chí: phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường, quan tâm đến các vấn đề xã hội và văn hóa… làm cơ sở xây dựng thương hiệu “Việt Nam” trong nước và quốc tế.
Một số thách thức liên quan đến Chính sách, thể chế quản lý
Nhiều chuyên gia cho rằng, kinh tế biển Việt Nam hiện nay vẫn còn đang phát triển dưới mức tiềm năng của nó, mà lý do chủ yếu vấn là cơ chế, chính sách chưa đủ thông thoáng để mở cửa vùng biển Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới[8].
Cho đến nay, cơ chế chính sách đối với kinh tế biển nói chung không có gì đặc thù đáng kể do với khung chính sách chung, đều trong khuôn khổ các luật quốc gia như Luật Đầu tư, Thương mại, Hải quan..., tác dụng chung cho cả nước. Kinh tế biển là nền kinh tế đặc thù nên cần có một cơ chế, chính sách đặc thù khác biệt với cơ chế, chính sách chung hiện hành.
Do vậy chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế của kinh tế biển phải sâu rộng hơn, phải có sự vượt trội hơn.
Điều này sẽ làm cho kinh tế biển phát triển năng động và hiệu quả hơn. Mở cửa và hội nhập quốc tế sâu rộng hơn sẽ đảm bảo khai thác các tài nguyên biển ở Việt Nam hiệu quả hơn.
Các chính sách mang tính địa phương nên lưu ý đến những quy định,chính sách phù hợp cho kinh tế biển phát triển, trong đó cần có chính sách phát triển khoa học, chính sách bảo tồn các di sản thiên nhiên và văn hóa, chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu…
Ngoài ra, đã đến lúc cần phải xem xét, bổ sung và hoàn thiện toàn bộ Luật bảo vệ môi trường, cần hoàn chỉnh hệ thống các tiêu chuẩn về môi trường và nâng các tiêu chuẩn này lên mức ngang với tiêu chuẩn của các nước công nghiệp mới, để Luật môi trường của ta không những đủ sức răn đe mà cần phải tương hợp với Luật môi trường quốc tế.
Để giải quyết triệt để vấn đề Môi trường thì ngoài luật môi trường cũng cần bổ sung hoàn thiện các Luật khác có liên quan đến môi trường như luật cạnh tranh, luật đầu tư và cả luật hình sự nữa.
Luật hình sự có thể cho phép bất cứ công dân hay hiệp hội, không nhất thiết là người bị hại trực tiếp, khởi kiện các hành vi hủy hoại môi trường.
Cần có giải pháp khả thi để thực hiện Nghị định 99/2010/NDCP của Thủ tướng CP thực hiện chi trả dịch vụ môi trường như: Thủy điện 20 đ/kwh, nước sạch 40 đ/m3, du lịch 1-2%/doanh thu.
“Xanh hóa” đất nước là nhu cầu có tính thời đại. Nhưng đây là nhiệm vụ rộng lớn và hết sức khó khăn, đòi hỏi những giải pháp cải cách căn cơ, đổi mới  trong hệ thống thể chế, chính sách; thực hiện cơ cấu lại toàn bộ các ngành, lĩnh vực và doanh nghiệp.
Đây là những thách thức cần phải vượt qua. Ngoài một số những khó khăn, trở ngại do thiếu hiệu quả trong quản lý phát triển kinh tế biển và ven biên như đã nêu trên, có 4 thách thức cơ bản nhất, cần phải tháo gỡ.
Đó là: 1) Về phương pháp luận và nhận thức, cần phải làm rỏ một số vấn đề cơ bản về quan điểm, triết lý phát triển và tổ chức quản lý kinh tế trong thời đại mới. Rất cần có sự "đột phá về lý luận", như Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu tại Hội đồng lý luận trung ương (ngày 19-10-2011): "Phát triển bền vững trong điều kiện thế giới ngày nay, nhất là trước những biến đổi dữ dội của môi trường và áp lực của kinh tế tri thức, nếu không có những đột phá về lý luận thì không thể tạo ra được tiền đề khoa học cho sự phát triển thực tiễn, cho chất lượng và hiệu quả hoạt động ".
Như vậy, công tác lý luận cần được cải tiến hơn nữa: thực hiện dân chủ rộng rãi trong nghiên cứu khoa học, lý luận, tăng cường đối thoại, không né tránh những vấn đề chưa đạt được sự nhất trí, khuyến khích các tổ chức tư vấn phản biện chính sách, qua đó, thu hút đông đảo trí thức, doanh nhân vào việc nghiên cứu đường lối, chính sách phát triển v.v[9]...;
2) Vấn đề về năng lực thực thi, triển khai của bộ máy quản lý nhà nước cũng phải được rà soát, nâng cao, phải tạo ra được sự thống nhất giữa các bộ, ngành, các cơ quan trong quản trị phát triển kinh tế, xã hội, nhất là trong quá trình “xanh hóa” nền kinh tế;
3)  Cần phải tổ chức hiệu quả phép quản trị kỷ cương để hạn chế, ngăn chặn những tác động tiêu cực của “các nhóm lợi ích (lợi ích cá nhân, công ty, tập đoàn, ngành, địa phương...) và tư duy nhiệm kỳ”, trong phát triển bền vững.
Quản trị kỷ cương cần phải được tăng cường và phải có thực lực trong thực tiển, nhằm tạo ra “thế và lực mới” trong quá trình xây dựng  một Nhà nước "kiến tạo phát triển" như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã từng nhấn mạnh25 và 4)
Thách thức liên quan đế vấn đề thông tin và quản lý, công bố thông tin thiếu khoa học.
Thông tin không chuẩn mực, thiếu chính xác, không có số liệu đáng tin cậy (có thể do kỷ thuật, do phương pháp, do trách nhiệm, do thiếu minh bạch và do cả bệnh thành tích....[10] ) thì không thể đưa ra những đánh giá đúng tình hình, không thể dự báo chính xác các xu hướng  nên không thể xây dựng được chiến lược phù hợp và đưa ra những quyết sách, giải pháp để giải quyết vấn đề có hiệu quả.
Ngoài ra, thiếu thông tin chuẩn xác, cũng có thể tạo ra những “ngộ nhận” về thực trạng phát triển kinh tế, xã hội, về giá trị tài nguyên, về vai trò của vùng biển và về khả năng quản trị phát triển kinh tế biển, đảo trong các mối quan hệ quốc tế phức tạp hiện nay.
Nghịch lý trong hội nhập và toàn cầu hóa
Chúng ta đang sống trong một thế giới được đánh dấu bởi sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng, nhu cầu tăng cường sự hợp tác, quá trình toàn cầu hóa sẽ thúc đẩy quá trình tạo ra những động lực mới cho tăng trưởng.
Như vậy, về mặt lý luận và kinh nghiệm thực tiễn, khẳng định, “hội nhập” là cách tốt nhất để Việt Nam ta khắc phục sự “tách biệt thế giới”, sự “đơn độc”, vốn là “điểm yếu cốt tử”, ngăn cản sự cường thịnh của các nước ở phương Đông.
Muốn phát triển kinh tế, an ninh ổn định thì phải lưu ý, đẩy mạnh công tác đối ngoại, hội nhập, nghĩa là phải tăng cường sức mạnh ngoại giao, hợp tác, trao đổi.
Hội nhập đã tạo ra nhiều cơ hội không những cho nhân dân chúng ta thừa hưởng những giá trị văn minh của nhân loại, mà còn làm cho cộng đồng dân chúng có thể trực tiếp đóng góp vào nền văn minh chung của nhân loại bằng những giá trị sáng tạo trong các hoạt động kinh tế và  đời sống văn hoá, xã hội thường ngày.
Đặc biệt là phải tăng cường khả năng thương mại quốc tế vì đó là đầu tàu của gia tăng năng suất, tiến bộ công nghệ và nâng cao thu nhập. T
ất cả các lĩnh vực kinh tế biển cho đến nay đã phát triển được chủ yếu là nhờ mở rộng quan hệ hợp tác với bên ngoài. Cái lợi của hội nhập thì ai cũng thấy: năm 2010 VN đã thu hút hơn 12.213 dự án đầu tư nước ngoài, với số vốn đầu tư đăng ký đến 192 tỷ USD.
Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 72 tỷ USD, góp phần nâng giá trị GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt giá trị 1.168 USD/người[11]. Tất nhiên, hội nhập không chỉ có lợi, nó còn mang theo nhiều hệ luỵ. Những vấn đề này, trong quá trình thực hiện “hội nhập” “toàn cầu hóa” phải được quán triệt đầy đủ.
Phải biết “hòa nhập” những phải giữ “bản sắc” của dân tộc Việt Nam. Phải biết cách gắn “hội nhập” với phát triển kinh tế, với bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia và môi trường với an sinh xã hội.
Việt Nam đã đề xuất nhiều biện pháp thúc đẩy hợp tác ở Biển Đông, như  sáng kiến xây dựng một cơ chế quản lý nghề cá ở cấp khu vực và kiểm soát ô nhiễm biển thực sự hiệu quả, thiết lập một mạng lưới các khu bảo tồn biển song phương hoặc đa phương như một giải pháp thay thế cho lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương hiện nay...
Khi Việt Nam gia nhập quá trình toàn cầu hóa thì đồng thời chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều thách thức trong đó nổi lên vấn đề môi trường do làn sóng đầu tư đổ vào.
Đây là dịp để các nước và vùng lãnh thổ công nghiệp mới  tăng cường “thanh lý” và “chuyển giao” những công nghệ không còn phù hợp với họ sang các nước đang phát triển để có tiền đầu tư công nghệ sạch.
Quá trình này tạo thành một vòng chu chuyển công nghệ lạc hậu: những công nghệ nào không còn đáp ứng tiêu chuẩn bảo vệ môi trường sẽ được chuyển dần từ những nước có tiêu chuẩn bảo vệ cao nhất đến những nước có tiêu chuẩn thấp hơn.
Các nước đang phát triển khác lại đẩy công nghệ lạc hậu của mình sang các nước kém phát triển hơn. Việt Nam đang đối mặt với hàng loạt dự án đầu tư thuộc những lĩnh vực gây ô nhiễm môi trường trong sản xuất chế biến công nghiệp như luyện sắt thép, sản xuất nhôm, sản xuất giấy, hóa chất, chế biến thực phẩm, v.v...
Đây là những ngành sản xuất không những cần nhiều lao động mà còn tiêu thụ nhiều năng lượng, nhiều nước và gây tổn hại lớn đến môi trường mà nhiều nước mới công nghiệp hóa không khuyến khích duy trì những lĩnh vực này ở chính quốc.
Việc Việt Nam hy vọng nhiều khi tham gia tổ chức thương mại toàn cầu (WTO), tuy cũng đã nhận thức được, WTO cũng sẽ làm thay đổi một số ngành kinh tế truyền thống quan trọng, sẽ tăng thêm sức ép đến tài nguyên môi trường, nhất là đối với vùng biển và một số lĩnh vực kinh tế biển quan trọng.
Tuy nhiên, thực tế đáng buồn hơn những gì chúng ta dự đoán, đặc biệt, kinh tế Việt Nam đã có chiều hướng đi xuống và gặp nhiều tổn thương sau 5 năm tham gia WTO (2007-2011)[12].
Đây là  bài học nghịch lý, so với những tính toán và hy vọng trước đây, cần phải được phân tích, mổ xẻ để chấn chỉnh và khắc phục, nhất là trong qua trình tổ chức phát triển xanh lam, là nền kinh tế thương mại, mở và có nhiều áp lực do quá trình toàn cầu hóa.
Giải pháp
Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo.
Tuy nhiên,chúng ta đang đối mặt với một số vấn đề trong tổ chức, triển khai phát triển kinh tề bền vững: chất lượng tăng trưởng còn thấp, hiệu quả sử dụng tài nguyên bị lãng phí, thất thoát nghiêm trọng, các vấn nạn ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên bức xúc...
Thực tế phát triển kinh tế trong hơn 20 năm qua, bắt buộc chúng ta cần phải nhìn nhận toàn diện lại cách thức, mô hình phát triển kinh tế truyền thống, đồng thời cũng đòi hỏi sự áp dụng một tư duy hoàn toàn mới về cách tiếp cận, nhất là trong phát triển kinh tế xanh lam[13].
Trước hết, là cần phải có quyết tâm chính trị, đổi mới và sáng tạo trong tổ chức khai thác, sử dụng không gian lãnh hải.
Đổi mới, sáng tạo trong tổ chức không gian lãnh hải cho phát triển xanh phải được tiến hành trên cơ sở khoa học, kinh tế và xã hội, phù hợp với đặc điểm cụ thể của Việt Nam và của biển Đông, trong bối cảnh “nóng bỏng” hiện nay.
Đó là một công việc vô cùng khó khăn, tốn kém thời gian, công sức, tiền của và trí tuệ.
Sự phát triển kinh tế xanh lam ở Biển Đông cần được nhìn nhận là nền kinh tế hiện đại, tiến bộ trong một không gian thống nhất, với 3 vùng đặc trưng vĩ mô: vùng biển khơi với các quần đảo xa: Trường Sa, Hoàng Hoa, vùng thềm lục địa và vùng ven bờ bao gồm những thủy vực biển ven bờ cùng hệ thống đảo và vùng đất ven biển với sự liên kết cung ứng và hậu cần, thị trường đa năng của cả nước. Với  mặt tiền hướng ra biển Đông, dài hơn 3444 km, một vùng lãnh hải rộng đến 1,278 triệu km2, với  hơn 3 nghìn đảo lớn, nhỏ và 2 quần đảo ngoài khơi Hoàng Sa và Trường Sa, có hơn 20 kiểu hệ  sinh thái  biển, đảo nhiệt đới điển hình với những giá trị kinh tế quý giá (bảng 2).
Sách lược phát triển kinh tế và an ninh quốc phòng cần  phải dựa vào các đặc trưng tư nhiên vốn có của từng vùng lãnh hải do đó phân vùng sinh thái (xác định khoảng không gian tối ưu trong phát triển kinh tế và quốc phòng) là một trong những việc ưu tiên của công tác tổ chức phát triển xanh lam trên biển Đông.
Bảng 2: Lượng giá giá trị kinh tế các hệ sinh thái biển Việt Nam và biển Đông
Các hệ
sinh thái
Tổng giá trị hàng hóa  USD/ha (1)Tổng giá
trị dịch vụ
USD/ha (2)
Tổng giá trị
USD/ha
(1 + 2)

Tổng diện tích điều tra (ha) (3)Tổng giá trị
kinh tế năm
USD/ha.năm
(1+2) x (3)
Rừng ngập mặn453,95
(1584,97)*
(28,64 %)**
Chưa xác
định
453,95
(2872,25)*
(15,88%)**
156 608
(1809136)*
(8,66%)**
71092201
(5196296711)*
(1,4% )**
Thảm cỏ biển582.36
(712.38 )*
(82,0 %)**
1678,77
469,21*
(357%)**
2261,13
(1181,59 )
(191%)
8940
(73769)*
(12%)**
20214502
(87164402)*
(23%)**
Rạn san hôChưa xác
định
964,17
1408,97*
(68%) **
964,17
1542,56*
(63% )**
110000
750307*
(15%)**
106058248
1157393756*
(9,1)**
Đất ngập nước1442,05
(167,00)*
(863%) **
1227,94
(128,15)*
(958%) **
2670,00
(295,15)*
(904%)**
392416
(4201145)*
(9,3%)**
1047749247
(1239956427)*
(84%)**
Ghi chú: 7 nước xung quanh biển Đông tham gia dự án đánh giá: Campuchia, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Phillipine, Thái Lan và Việt Nam; *: Tổng giá trị kinh tế hàng hóa (1) và dịch vụ (2) của 7 nước tham gia dự án; **: Tỷ số % giá trị kinh tế ven biển Việt Nam so với giá trị trung bình của 7 nước
Ngoài ra, tổ chức và quản trị không gian phát triển còn đòi hỏi phải sử dụng tối đa cách tiếp cận hệ thống, đa ngành, tổng hợp với việc linh hoạt, vận dụng một số phương pháp phân tích có triển vọng trong quản trị, phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh quốc phòng, như mô hình DPSIR (động lực, Áp lực, Hiện trạng, Tác động, Đáp ứng), xác định các giải pháp ưu tiên theo nguyên tắc SMART (cụ thể, có thể định lượng, thiết thực, khả thi, thời gian), phân tích thế mạnh, điểm yếu,cơ hội và thử thách theo ma trận SWOT (điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, đe dọa )….
Tăng cường hợp tác khu vực và quốc tế để trao đổi kinh nghiệm, thông tin, tìm kiếm cơ hội, tài chính, quảng bá sản phẩm và đào tạo nguồn nhân lực, tăng cường tiềm lực khoa học, công nghệ, điều tra cơ bản các quá trình hải dương học, nguồn lợi tài nguyên, môi trường cũng là giải pháp cần thiết và có nhiều triển vọng.
Nguyên nhân và động lực dẫn đến phải tăng cường, đẩy mạnh công tác quản lý phát triển kinh tế biển xanh rất đa dạng, phong phú, vừa có tính toàn cầu, vừa có tính địa phương. Nó phụ thuộc hoàn toàn vào đặc điểm chính trị, thể chế và điều kiện phát triển của từng quốc gia, từng địa phương.
Chúng ta phải nghiên cứu, phân tích và học tập kinh nghiệm tổ chức quản lý phát triển xanh của các nước.
Nhưng qua thực tế phát triển, Việt Nam rút được kinh nghiệm là “mỗi khi dập khuôn theo mô hình này, hay mô hình khác đều thất bại”[14].
Không thể có một mô hình quản lý phát triển kinh tế xã hội tổng quát, có thể áp dụng chung cho mọi nơi, cho mọi nền kinh tế biển. Qua nghiên cứu cũng thấy rất khó khăn khi áp dụng những kinh nghiệm và bài học quản lý phát triển xanh của các quốc gia khác vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
Đặc biệt là giữa các quốc gia, các vùng có thể chế chính trị, có trình độ phát triển kinh tế, dân trí, văn hóa, thói quen, phong tục và có điều kiện địa lý, sinh thái khác nhau. Việt Nam chủ trương mở cửa, coi trọng hợp tác quốc tế trong phát triển kinh tế biển và vùng ven biển một cách toàn diện.
Phát huy triệt để và có hiệu quả các nguồn lực bên trong, kết hợp với tranh thủ sự hợp tác và thu hút các nguồn lực từ bên ngoài theo nguyên tắc cùng có lợi, tôn trọng chủ quyền và trên tinh thần chủ động, tích cực mở cửa, hội nhập. Trong hợp tác để phát triển, Việt Nam quán triệt phương châm:
- Đối với vùng biển còn tranh chấp thì cương quyết khẳng định chủ quyền, đồng thời chủ động tìm phương án hợp tác cùng thăm dò, quản lý khai thác, cùng đầu tư phát triển;
- Tăng cường mở rộng hợp tác với nước ngoài để tạo nguồn lực mạnh. Tập trung hợp tác mạnh trong các ngành như: khai thác dầu khí, đánh bắt xa bờ, phát triển cảng biển, vận tải biển, du lịch biển đảo...
Tuy nhiên trong việc hợp tác từng khu vực phải đan xen nhiều nước, đem lại lợi ích chung, cương quyết chống độc quyền thăm dò, khai thác của một đối tác nước ngoài. Đặc biệt hợp tác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực  cùng với các tổ chức quốc tế.
Kết luận
Việt Nam đang nỗ lực, sử dụng các giá trị tiềm năng ở Biển Đông, nhất là  hệ sinh thái nhiệt đới, trí tuệ con người  để sinh thái hóa nền kinh tế nói chung, kinh tế biển nói riêng, để tổ chức phát triển và bảo vệ  đất nước theo hướng xanh hóa: phồn vinh, hạnh phúc và hữu nghị.
Biển Đông có ý nghĩa rất quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị không chỉ đối với Việt Nam, với các nước xung quanh, mà còn quan trọng với cả các nước khác trong khu vực Tây Thái Bình Dương, cũng như trên thế giới.
Cần có sự hợp tác, chia sẽ và thân thiện trong quá trình phát triển kinh tế và bảo vệ an ninh chủ quyền của các quốc gia

PGS. Nguyễn Tác An/Phó Chủ tịch Hội Khoa học Kỹ thuật Biển Việt Nam

No comments:

Post a Comment