TSKH Trần Quang Thắng Phó Chủ tịch Hội Tư vấn HASCON, Viện trưởng Viện Kinh Tế và Quản lý TP. HCM, Chúng ta biết rằng sáu
động lực chính cho phát triển dài hạn đất nước là Kinh tế, chính
trị và xã hội, dân số và nhân khẩu học, các nguồn lực và môi
trường, Công ăn việc làm và nguồn
nhân lực, Khoa học và công nghệ. Trong
đó khoa học và công nghệ là động lực cốt lõi trong nền kinh
tế.
Một số công nghệ có thể
được dự báo trước như các công nghệ dựa trên sự cải tiến hay tạo ra
cách dùng mới cho công nghệ củ, đồng thời củng có các thay đổi mau
chóng từ những lĩnh vực cơ bản mới còn khó hiểu hết các tác động
của chúng như các loại vải sợi mới, các vật liệu cấu trúc, công
nghệ nano, công nghệ sinh học và công nghệ thông tin. Lấy công nghệ
thông tin làm ví dụ, chúng ta thấy việc nắm bắt được nguồn thông tin,
làm thế nào để tiếp cận và khai thác chúng sẽ dẫn đến thế mạnh
kiểm soát. Việc thay đổi thuận lợi tình thế sẽ nằm trong tay những
người có khả năng tiếp cận hầu hết các thông tin sẳn có qua internet.
Làm sao để việc lưu chuyển các nguồn thông tin hữu ích, có giá trị
tích cực cho cộng đồng mà vẫn bảo đảm được sự an toàn thông tin cần
thiết quả thật là một thách thức lớn. Càng có nhiều thu hoạch về
tri thức trong từng lĩnh vực khác nhau của khoa học và công nghệ thì
chúng ta càng có nhiều cơ hội tương tác với các công nghệ khác. Điều
này sẽ giúp các nổ lực được cá nhân hóa cao hơn cũng như có được
các công dụng nói chung rộng rải hơn. Khoa học và công nghệ ảnh hưởng
lên tất cả các động lực khác, do đó tác động của chúng là then
chốt và tương đối khó dự đoán do có nhiều khả năng mới vẫn còn chưa
lộ rõ ra. Trên thế giới hiện
nay, KHCN phát triển rất mạnh mẽ và đã thật sự trở thành một lực lượng sản xuất
trực tiếp. Với lợi thế của nước đi sau, nếu chúng ta có quyết sách đúng thì
hoàn toàn có thể tranh thủ thời cơ, tiếp thu và làm chủ các thành tựu KHCN tiên
tiến nhất phục vụ chiến lược phát triển tăng tốc, nâng cao năng suất, chất
lượng và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Ðó chính là khả năng hiện thực
rất lớn của chiến lược "đi tắt, đón đầu", chiến lược phát triển dựa
vào tri thức. Trong đó, vai trò của KHCN nói chung và của các trường đại học,
các viện nghiên cứu, các doanh nghiệp trong nước cần phải được phát huy cao
độ. Chỉ riêng hãng Apple (Mỹ), để hoàn thiện và giới thiệu ra thị trường các
sản phẩm iPad 2 và iPhone 4, hãng này đã chi hơn 1,8 tỷ USD cho công tác
R&D. Đổi lại, trong cùng thời kỳ, thu nhập của hãng tăng lên 22,3 tỷ USD…
Một
cuộc khảo sát gần đây của Sở KHCN TP Hồ Chí Minh tại gần 700 DN hoạt động tại
12 khu công nghiệp, khu chế xuất trên địa bàn để đánh giá trình độ công nghệ
cho thấy, 51% DN có trình độ công nghệ lạc hậu; chỉ có 25% đơn vị có công nghệ
đạt khá trở lên. Sự lạc hậu về công nghệ và kỹ thuật đã và đang tạo ra các sản
phẩm có giá trị thấp, thiếu ổn định. Chưa kể đến khả năng cạnh tranh bằng giá
khi giá thành các sản phẩm trong nước thường cao hơn các sản phẩm nhập khẩu
10-30%. Đây là hệ quả việc sử dụng các công nghệ tụt hậu từ hai, ba thế hệ và
chưa làm chủ được công nghệ nguồn. Rõ ràng, bức tranh công nghệ từ địa phương
luôn dẫn đầu cả nước về giá trị xuất khẩu, GDP... là không sáng sủa. Giá trị
gia tăng trên sản phẩm xuất khẩu của thành phố Hồ Chí Minh trong năm
2014 cở 18 – 20%, trong khi các địa phương khác ở mức 5% - 8%, nếu tận
dụng tốt hơn các thành tựu của Khoa học – Công nghệ thì giá trị gia
tăng trong tương lai của sản phẩm xuất khẩu có thể tăng lên bình quân
trên 50%.
Khoa học và công nghệ đóng vai trò hết sức
quan trọng nhưng tại sao khoa
học và công nghệ chưa trở thành động lực phát triển kinh tế ở nước ta?
Câu
trả lời nằm ở một loạt các nền móng và định hướng tiền đề mà
chúng ta chưa làm tốt như sau:
1/ Việc thực hiện đồng
bộ các giải pháp thúc đẩy KH-CN chưa được triển khai tốt trên thực
tế:
Hoạt động KH&CN còn mang
nặng tính chất kinh viện, chưa gắn kết chặt chẽ, có hiệu quả với mục tiêu,
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu của
xã hội và doanh nghiệp; thành tựu KH&CN đạt được còn cục bộ, chưa mang tính
hệ thống, chưa đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH và
hội nhập quốc tế. Cơ chế quản lý, tổ chức và hoạt động KH&CN còn tồn tại
nhiều bất hợp lý. Phương thức xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ KH&CN
các cấp còn trùng lặp, chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn phát triển kinh
tế - xã hội, rất ít nhiệm vụ KH&CN mang tầm quốc gia và quốc tế. Cơ
chế tài chính trong hoạt động KH&CN, nhất là thủ tục thanh quyết toán nhiệm
vụ KH&CN còn rườm rà, phức tạp, không phù hợp với đặc thù của hoạt động
KH&CN.
Đầu tư cho KH&CN còn thấp,
hiệu quả sử dụng chưa cao. Hiện nay, tổng đầu tư xã hội dành cho KH&CN mới
chỉ đạt sấp xỉ 1% GDP, trong đó ngân sách nhà nước chiếm khoảng 2/3. Trong
khi ở Trung Quốc đạt khoảng 1,75% GDP, một số nước thuộc Tổ chức Hợp tác kinh
tế và phát triển (OECD) đạt khoảng trên 2% GDP và chủ yếu là từ doanh nghiệp...
Việc phân bổ nguồn kinh phí 2% ngân sách nhà nước
dành cho KH&CN hàng năm theo quy định hiện hành cho 63 tỉnh, thành phố, các
Bộ, ngành và 2 viện quốc gia làm cho nguồn lực tài chính bị dàn trải, phân tán
và nhiều trường hợp được sử dụng không đúng mục đích, kém hiệu quả, nhất là ở
các địa phương không thực sự có nhu cầu và tiềm lực KH&CN. Hệ thống tổ
chức KH&CN tuy tăng nhanh về số lượng, đạt trên 1.600 tổ chức, nhưng chưa
đồng bộ về các ngành, lĩnh vực do thiếu quy hoạch tổng thể. Việc chuyển đổi các
tổ chức KH&CN công lập sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm triển khai
còn rất chậm. Cơ sở hạ tầng - kỹ thuật và tiềm lực KH&CN quốc gia còn hạn
chế, sử dụng chưa hiệu quả. Việc khai thác, sử dụng 03 khu công nghệ cao quốc
gia, 17 phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia chưa thật sự hiệu quả, chưa tương
xứng với sự quan tâm đầu tư của Nhà nước. Thị trường KH&CN ở nước ta mới
được hình thành, chậm phát triển và còn ở trình độ sơ khai; giao dịch trên thị
trường chủ yếu vẫn là các trang thiết bị, máy móc, dây chuyền sản xuất toàn
bộ, mặt khác các giao dịch mua bán công nghệ ở dạng văn bằng sáng chế, bí
quyết công nghệ, giải pháp hữu ích còn rất ít. Doanh nghiệp KH&CN chưa phát
triển, số lượng còn quá ít nên chưa thúc đẩy gia tăng nhu cầu công nghệ trên
thị trường.
Từ các Nghị quyết của Đảng,
đến nay hệ thống pháp luật về KH&CN đã được ban hành tương đối đầy đủ, với
8 đạo luật đã tạo hành lang pháp lý đồng bộ, môi trường thuận lợi để thúc
đẩy KH&CN phát triển.
2/
Chưa xây dựng và thực thi chính sách phát hiện, thu hút, đào tạo, trọng
dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ KH&CN trình độ cao, có kết
quả nghiên cứu đạt trình độ quốc tế, có sản phẩm khoa học
có giá trị đối với đất nước.
3/ Chưa tạo điều kiện
thuận lợi để trí thức người Việt Nam ở nước ngoài, các nhà khoa học
nước ngoài tham gia hoạt động KH&CN ở Việt Nam. Đẩy mạnh hợp tác và chủ
động hội nhập quốc tế về KH&CN, đặc biệt là với các địa bàn trọng điểm có
công nghệ nguồn cần khai thác, giải mã và chuyển giao để phục vụ yêu cầu đổi
mới công nghệ trong nước, nâng cao năng lực KH&CN quốc gia, đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
4/
KH&CN chưa được doanh nghiệp ứng dụng và sử dụng hiệu quả trong hoạt động
sản xuất, kinh doanh để tạo ra sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ có chất lượng cao
để thực sự trở thành động lực cho tăng trưởng kinh tế nếu đáp ứng nhu cầu của
thị trường,.
5/ Vai trò của KH&CN chưa
được nhận thức đúng đắn toàn diện trong hệ thống quản lý nhà nước
cũng như việc thể hiện quyết liệt trong hành động chưa thể hiện rõ trong thực tế. Đó
là nhận thức để đưa KH&CN vào chương trình hành động, kế hoạch phát triển
của từng ngành, địa phương mình hay không? Đâu đó người ta vẫn làm việc và coi
KH&CN như là một công tác hành chính sự nghiệp; các nhà khoa học thì như
những viên chức hành chính, làm công ăn lương. Họ không đánh giá đúng và đủ vai
trò của hoạt động KH&CN, chưa thừa nhận môi trường làm việc mang tính đặc
thù sáng tạo của các nhà khoa học.
6/
Trong khi những nước phát triển tập trung phát triển KH&CN, sản xuất hàng
hóa với hàm lượng tri thức cao, chúng ta những năm qua vẫn tập trung phát triển
bề rộng với lợi thế về nguồn tài nguyên khoáng sản và nhân lực lao động rẻ.
Những thế mạnh đó đến lúc cũng cạn kiệt và nếu không tập trung đầu tư phát
triển KH&CN, lấy đó làm nền tảng, động lực phát triển kinh tế - xã hội,
chắc chắn Việt Nam sẽ bị tụt hậu. Các nhà khoa học làm việc trong nước lại ít
có công trình nghiên cứu đăng trên tạp chí nước ngoài.
7/
Việc kinh phí phát triển KH&CN từ Trung ương cấp về các địa phương bị sử
dụng sai mục đích. Đáng ra kinh phí để mua sắm trang thiết bị, đào tạo, nghiên
cứu KH&CN, lại được lãnh đạo quyết định dùng... làm đường, đắp đê. Đó chỉ
là một ví dụ và chính những tư duy kiểu đó đã làm trì trệ, kìm hãm sự phát
triển của KH&CN đất nước
8/
Hiện tại chúng ta không chỉ thiếu lực lượng KH&CN trẻ mà còn đang thiếu
hụt những nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành, những tổng công trình sư, kỹ sư
trưởng đủ trình độ và năng lực thực hiện những công việc lớn của đất nước.
9/ Chưa làm tốt công tác
đổi mới, cải tiến hiệu quả những chính sách liên quan, nhất là khâu đãi
ngộ, trọng dụng người tài, nếu làm được như thế sẽ lôi kéo được những bạn
trẻ có trình độ, có khả năng tham gia nghiên cứu, phát triển KH&CN, xây
dựng được đội ngũ đông đảo các nhà khoa học Việt Nam đủ tài, đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, vấn đề này
không dễ dàng trong bối cảnh nguồn lực của quốc gia dành cho KH&CN nhìn
chung còn hạn chế.
Với nguồn lực hạn hẹp hiện nay của Nhà nước, trước mắt chưa thể có những chính sách mang tính đại trà, mà trước hết sẽ nhằm vào ba đối tượng: các nhà khoa học đầu ngành, các nhà khoa học được giao chủ trì nhiệm vụ của quốc gia, và các nhà khoa học trẻ tài năng.
Với nguồn lực hạn hẹp hiện nay của Nhà nước, trước mắt chưa thể có những chính sách mang tính đại trà, mà trước hết sẽ nhằm vào ba đối tượng: các nhà khoa học đầu ngành, các nhà khoa học được giao chủ trì nhiệm vụ của quốc gia, và các nhà khoa học trẻ tài năng.
10/
Mô hình phát triển KH&CN của ta trái ngược với kinh nghiệm từ các
cheabol, là những trụ cột chính trong sáng tạo, phát triển công nghệ tại Hàn
Quốc. Cụ thể, để có những thương hiệu nổi tiếng toàn cầu hiện nay trong lĩnh
vực đóng tàu, bán dẫn, điện tử... như Posco, Hyundai, Samsung, LG... các tập
đoàn, DN này đã không ngần ngại đầu tư hơn 70% tổng kinh phí cho KH&CN của
Hàn Quốc mỗi năm. Khi bỏ tiền túi ra, các ông chủ tập đoàn, DN sẽ biết cách
tiêu làm sao để mang lại hiệu quả cao nhất, hoàn toàn khác với lối tiêu tiền từ
ngân sách vốn nặng về thủ tục hành chính và định mức rất xa thực tế như đang
tồn tại ở nước ta từ vài chục năm nay. Ngoài ra, thay vì hỗ trợ mạnh cho các
tập đoàn kinh tế như cách đây khoảng 10 năm về trước, hiện nay Hàn Quốc ưu tiên
hàng đầu cho cộng đồng DN nhỏ và vừa trong ứng dụng công nghệ mới. Ở ta, kinh
phí cho KH&CN còn được nhiều địa phương "xẻo" ra cho việc thực
hiện các mục đích khác... Hậu quả là nền KH&CN nước nhà đã tụt hậu, càng
đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực và thế giới.
Mặt khác, quốc gia nào có nền KH&CN càng phát triển thì tỷ lệ đầu tư cho
KH&CN của khu vực ngoài nhà nước so với ngân sách nhà nước càng lớn, ví dụ:
Ở Châu Âu, Hàn Quốc, Nhật Bản, tỷ lệ này thường là 3:1 đến 4:1; Trung Quốc cũng
đã đạt được tỷ lệ 3:1 trong năm 2011. thực trạng nước ta "chưa hình thành
nhu cầu tự thân đủ mạnh của các DN trong việc phát huy vai trò của
KH&CN". Ngoài ra cần khuyến khích tư nhân thành lập hoặc liên kết
với Nhà nước thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm đối với hoạt động nghiên cứu
phát triển công nghệ mới, công nghệ cao. Việt Nam cần nghiên cứu ban hành quy
định về việc DN trong nước lập quỹ phát triển KH&CN; coi đây là yêu cầu bắt
buộc với DN nhà nước và là hoạt động được khuyến khích đối với các DN
khác"... Vấn đề đặt ra ở đây là DN Việt Nam đổi mới công nghệ theo hướng
nào, lấy nguồn vốn ở đâu trong giai đoạn suy thoái kinh tế chưa có điểm dừng và
vai trò của Nhà nước ở đâu?
11/ Cơ sở đào tạo nguồn nhân
lực, đầu tư trang thiết bị, xây dựng cơ sở dữ liệu… làm cho nền khoa học công
nghệ chẳn hạn như khoa học biển Việt Nam thiếu và yếu. Tuy có được những ưu
ái nhất định từ phía chủ trương, chính sách, song KH&CN biển còn không ít
rào cản khi tự nó rất chậm được đổi mới về cơ chế quản lý hoạt động, thiếu
chiến lược và chính sách KH&CN riêng nên KH&CN biển chưa thực sự trở
thành động lực phát triển kinh tế biển cũng như đáp ứng yêu cầu bảo đảm chủ
qyền biển, đảo.
Mặt khác, kinh tế biển của
chúng ta ở xuất phát điểm thấp, chưa phát triển theo hướng công nghiệp hóa –
hiện đại hóa nên thiếu nguồn kinh phí trầm trọng cho công tác đầu tư vào
KH&CN. Các sản phẩm được làm từ những chương trình, dự án và kể cả công
trình KH&CN cấp nhà nước không phải cái nào cũng là “đơn đặt hàng” từ chính
nhu cầu sản xuất, kinh doanh và quản lý nên “thị trường” KH&CN biển ở nước
ta phát triển rất chậm, cơ chế tài chính cũng chưa phù hợp với đặc trưng nghề
biển, một nghề đòi hỏi xuất đầu tư lớn song lại phải chịu nhiều rủi ro.
Nguồn nhân lực cho vấn đề
phát triển KH&CN biển đang là vấn đề lớn khi khi lực lượng mỏng, phân tán,
thiếu cán bộ chuyên gia đầu ngành ở những hướng chuyên sâu, mũi nhọn quan
trọng. Trong khi đó, việc đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ cán bộ làm KH&CN
biển còn nhiều bất cập, cơ sở và quy mô đào tạo nhỏ lẻ và các định hướng,
chương trình đào tạo về biển chưa toàn diện, thiếu cập nhật và chưa được tiêu
chuẩn hoá.
Bên cạnh đó, Việt Nam còn
thiếu một chiến lược tổng quát về khoáng sản năng lượng biển, chưa xây dựng
được bản đồ về tiềm năng khoáng sản năng lượng cho toàn vùng biển một cách
chính xác. Chiến lược tìm kiếm dầu khí chưa thật sự rõ ràng, còn phụ thuộc
nhiều vào các công ty nước ngoài. Nghiên cứu sinh vật, sinh thái vùng biển sâu
và đảo xa bờ còn chậm và lúng túng, thậm chí bất lực trước yêu cầu ngăn chặn sự
suy thoái nguồn lợi, các hệ sinh thái, môi trường biển…
Thiếu trang thiết bị và điều
kiện tài chính khiến nước ta chưa thể tiến hành nghiên cứu khoa học, điều tra
cơ bản ngoài biển xa mà chỉ làm được ở những vùng ven bờ, nơi có độ sâu 30 m
nước trở lại. khi tiếp cận với các nền khoa học tiên tiến trong hợp tác kinh
tế, vấn đề chuyển giao khoa học kỹ thuật, đầu tư thiết bị công nghệ cao để khai
thác hiệu quả (trừ một số ngành kinh tế mũi nhọn như dầu khí), còn rất hạn chế.
Nhiều ngành kinh tế biển vẫn đang khai thác bằng phương pháp truyền thống hiệu
quả thấp là chủ yếu.
Một số lĩnh vực quan trọng
để phát triển nền kinh tế biển trong phạm vi thềm lục địa của Việt Nam còn “bỏ
ngỏ” và chưa được xem là một dạng tài nguyên như nghiên cứu địa chất công trình
đáy biển, địa chất khảo cổ học, nghiên cứu khôi phục lại cổ địa lý, cổ đại
dương học, sự tiến hóa của thềm lục địa làm bài học để hướng về tương lai.
Chưa có một công trình
nghiên cứu khoa học về chính sách, xã hội biển mang tầm chiến lược, làm “điểm
tựa” cho sự phát triển bền vững biển và hải đảo. Đâu đó, cũng đã có những công
trình nghiên cứu nhưng vụn vặt, không toàn diện, không đồng bộ.
Chưa có tài liệu quy hoạch,
khai thác, sử dụng vùng biển đảo. Công việc quản lý biển đảo lâu nay vẫn chỉ
dựa vào Luật Đất đai và một số luật ngành như Thủy sản, Hàng hải…. Như vậy,
công cụ pháp lý để quản lý nhà nước trong lĩnh vực này còn rất mờ nhạt.
12/
Trong thời gian trước đây Việt Nam chưa xây dựng ra một hệ thống pháp luật đồng bộ cho KH&CN: Mọi người nói rất nhiều rằng khoa học và
công nghệ là then chốt, nền tảng, động lực và quốc sách, nhưng thực sự khoa học
và công nghệ vẫn chưa đạt được những thành quả phát triển như mong muốn. Nguyên
nhân chủ yếu là do hệ thống luật pháp về khoa học và công nghệ không đồng bộ
với hệ thống pháp luật chung của Nhà nước. Việc hoàn thiện toàn bộ hệ thống
văn bản pháp lý cho hoạt động khoa học và công nghệ, từ văn bản có vai trò đặc
biệt quan trọng. vướng mắc lớn nhất trong thực hiện Nghị định 115 chính là vấn
đề tự chủ về tài chính, vì trong suốt nhiều năm qua, hệ thống luật pháp của
chúng ta về tài chính, quyền sử dụng đất không được điểu chỉnh sửa đổi cho phù
hợp, và các tổ chức KH&CN vẫn không được giao tài sản và quyền sử dụng đất
theo quy định của Chính phủ.
13/ Cơ chế quản lý trước đây đối với các hoạt động KH&CN vẫn nặng tính bao cấp, hành chính và là một trong những rào cản lớn đối với sự phát triển của KH&CN trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Các thủ tục, cơ chế đầu tư cho KH&CN chưa được cải tiến, chưa phù hợp với đặc thù của lĩnh vực. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ KH&CN tăng nhanh về số lượng nhưng chất lượng vẫn còn thấp, nguồn nhân lực trình độ cao có rất ít. Cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu khoa học vẫn còn thiếu và yếu. cơ chế này đã trải qua nhiều giai đoạn đổi mới nhưng cho đến nay vẫn chưa được đổi mới rõ nét về cơ bản, chưa đồng bộ với cơ chế quản lý kinh tế, vẫn còn nặng về hành chính, chậm chuyển sang kinh tế thị trường và chưa phù hợp với những đặc thù của hoạt động sáng tạo KH&CN.
13/ Cơ chế quản lý trước đây đối với các hoạt động KH&CN vẫn nặng tính bao cấp, hành chính và là một trong những rào cản lớn đối với sự phát triển của KH&CN trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Các thủ tục, cơ chế đầu tư cho KH&CN chưa được cải tiến, chưa phù hợp với đặc thù của lĩnh vực. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ KH&CN tăng nhanh về số lượng nhưng chất lượng vẫn còn thấp, nguồn nhân lực trình độ cao có rất ít. Cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu khoa học vẫn còn thiếu và yếu. cơ chế này đã trải qua nhiều giai đoạn đổi mới nhưng cho đến nay vẫn chưa được đổi mới rõ nét về cơ bản, chưa đồng bộ với cơ chế quản lý kinh tế, vẫn còn nặng về hành chính, chậm chuyển sang kinh tế thị trường và chưa phù hợp với những đặc thù của hoạt động sáng tạo KH&CN.
14/ Giáo dục và
đào tạo chưa trở thành động lực quan trọng cho phát triển.
Cụ
thể, đào tạo nghề có mức tăng cao, một mặt là do nhu cầu lao động có tay nghề
và mặt khác do chủ trương thay đổi cơ cấu đào tạo của Nhà nước để khắc phục
tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”. Quy mô của bậc cao đẳng, đại học tăng chủ
yếu do kết quả xã hội hóa, thành lập mới nhiều trường. Riêng bậc học phổ thông
lại tăng thấp hơn do tốc độ tăng dân số đã chậm lại.
Tuy
vậy, giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém, là nguyên nhân sâu xa của tình
trạng chất lượng nhân lực không đáp ứng được nhu cầu thực tế, chưa trở thành
động lực quan trọng nhất cho phát triển.
Sự phát triển của giáo dục
và đạo tạo thời gian qua chủ yếu về số lượng. Chương trình học tập nặng, phương
pháp học tập vẫn chủ yếu là tiếp thu, cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, mất cân đối
giữa lý thuyết và thực hành.
Yêu cầu đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục và đào tạo là cấp thiết, bao gồm nhiều vấn đề từ tư duy, mục
tiêu, hệ thống tổ chức, loại hình, nội dung
phương pháp dạy và học đến cơ chế, quản lý, chất lượng đội ngũ giáo
viên, cơ sở vật chất, nguồn lực và điều kiện thực hiện. Đổi mới giáo dục và đào
tạo phải tổng thể từ cấp mầm non, phổ thông, đào tạo nghề, trung cấp chuyên
nghiệp đến cao đẳng, đại học và sau đại học.
15/ Chưa thể hiện đầy đủ
quyết tâm cao độ của toàn xã hội hướng đến một nền kinh tế tri thức.
Nước ta hiện có đội ngũ trí
thức đông đảo với khoảng 2,6 triệu người có trình độ từ đại học trở lên, chưa
kể những trí thức ở nước ngoài. Nhưng chúng ta vẫn đứng ở nửa dưới của bảng xếp
hạng nền kinh tế tri thức (Knowledge Economy Index – KEI) toàn cầu (Việt Nam là
3,51; Mỹ 9,02; Singapore: 8,44; Malaysia: 6,07...).
“Sự phát triển nói chung
liên quan đến mức độ cạnh tranh về công nghệ. Cạnh tranh công nghệ lại phụ
thuộc vào giáo dục và nghiên cứu khoa học. Như vậy, trong nền kinh tế tri thức,
giáo dục và nghiên cứu khoa học là nhân tố chính”.
Làm thế nào để khoa học – công nghệ trở thành
động lực phát triển kinh tế
Mọi công ty đều có trách nhiệm hàng đầu đối
với việc phát triển, ứng dụng công nghệ cho đất nước, nhưng nhà nước
lại đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển, ứng
dụng công nghệ này thông qua việc điều hành nền kinh tế, các quy
định, các chính sách thương mại, hỗ trợ trong nghiên cứu, phát triển
và thực hiện việc bảo hộ của nhà nước đối với công nghệ.
- Vai trò của
chính phủ trong việc tài trợ cho khoa học sẽ là gì?
Gạn lọc ra đầy đủ các lợi ích từ đầu tư công trong khoa học và nghiên cứu & phát triển là nhiệm vụ cốt lõi cho chính phủ.
Gạn lọc ra đầy đủ các lợi ích từ đầu tư công trong khoa học và nghiên cứu & phát triển là nhiệm vụ cốt lõi cho chính phủ.
Tuy những cải cách đang được tiến hành, các khung pháp lý và cơ cấu khuyến
khích còn thiếu sót tiếp tục làm hạn chế hợp tác giữa các bên. Các quốc
gia tiên tiến đều được đặc trưng bởi sự liên kết chặt chẽ giữa khoa học và đổi mới công nghệ.
Khoa học cũng ngày càng quan trọng nếu các quốc gia muốn hưởng lợi từ kho tri thức của thế giới. Nghiên cứu khoa học cơ bản là nguồn gốc của nhiều công
nghệ đang làm biến đổi xã hội, chẳng hạn như
Internet và laser, trong khi khoa học đời sống đang góp phần vào tiến bộ trong
chăm sóc sức khỏe và công nghệ sinh học với một tốc độ nhanh hơn bao
giờ hết. Một số lớn của những khám phá khoa học và phát minh diễn ra một cách tình cờ, đôi khi như là sản phẩm phụ của các nỗ lực nghiên cứu tập
trung hơn, nhưng thường là kết quả của sự tò mò khoa
học. Những khám phá như vậy, được gán
cho là nhờ may mắn, bởi bản chất của chúng, là không thể đoán trước
được. Tầm
quan trọng của sự may mắn ngụ ý rằng chính phủ không nên đi quá xa trong việc
định hướng nghiên cứu khoa học nhằm hướng tới mục tiêu kinh
tế, xã hội chính xác. Tuy nhiên, chính phủ có thể đưa ra những chỉ đạo quy mô rộng cho nghiên cứu lâu dài trong
lĩnh vực đòi hỏi nhiều hiểu biết hơn. Tuy nhiên việc sử
dụng kinh
phí nên có tính cạnh tranh, và các tiêu
chí cơ bản phải là sự xuất sắc khoa học và đỉnh cao tri thức.
Việc tài trợ của chính phủ về nghiên cứu phải
chú trọng việc tiếp tục cung cấp những hạt mầm của sự đổi mới. Việc rút ngắn chu kỳ các sản phẩm khu vực tư nhân và R &
D mang lại nguy cơ của sự đầu tư không đủ sức
vào nghiên cứu khoa học và các công nghệ dài hạn có ứng dụng rộng rãi.
Ngoài ra, thương mại hóa quá nhiều các nghiên cứu tài trợ công được thực hiện trong phòng thí nghiệm của nhà nước và các trường đại học sẽ làm giảm sự chú ý cần thiết vào việc nghiên cứu dài hạn.
Ngoài ra, thương mại hóa quá nhiều các nghiên cứu tài trợ công được thực hiện trong phòng thí nghiệm của nhà nước và các trường đại học sẽ làm giảm sự chú ý cần thiết vào việc nghiên cứu dài hạn.
projects. Trường hợp nghiên
cứu của chính phủ là cần thiết để
đáp ứng các mục tiêu công như y tế, năng lượng và
quốc phòng, chính sách của chính phủ sẽ cần
phải thể hiện sự cân bằng
giữa việc thúc đẩy cạnh tranh cho ngân sách so với
phân bổ kinh phí cụ thể cho dự án riêng.
Nhiều nỗ lực nhằm mục đích tạo ra các "trung tâm xuất sắc", đặc biệt là trong các lĩnh vực mới. Ngoài tác động trực tiếp của các trung tâm này về phát triển kiến thức và năng lực đổi mới, sự tạo ra các trung tâm nghiên cứu đẳng cấp thế giới đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành các mạng lưới và cụm nghiên cứu. Chúng giúp thiết lập một môi trường hợp tác giữa ngành công nghiệp và các các nhà nghiên cứu từ trường đại học và cung cấp một số lượng quan trọng những người có thể mở rộng nghiên cứu thêm và khuếch tán các công nghệ được hình thành. Trung tâm này cũng hoạt động như thỏi nam châm hút lấy những người có tay nghề cao từ khắp nơi trên thế giới.
Nhận thức rõ vấn đề này,
những năm qua, nhà nước đã rất quan tâm đến phát triển giáo dục và khoa
học-công nghệ với nhiều chủ trương, chính sách và cơ chế khuyến khích, hỗ trợ
và thực tế, chúng ta đã đạt được tiến bộ đáng kể.
Trong cái khó, nhiều khi lại
xuất hiện cơ hội. Cụ thể, cơ hội tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ của DN, đặc biệt là
những DN KH&CN. Theo đó, DN KH&CN được hưởng những ưu đãi cao nhất về thuế,
nghĩa là họ được miễn hoàn toàn 4 năm thuế thu nhập DN, giảm 50% thuế trong 9
năm tiếp theo. Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia cũng sẽ ra đời với số vốn nhiều
nghìn tỷ đồng. Đây sẽ là kênh hỗ trợ mới giúp DN tham gia vào hoạt động KHCN
nhiều hơn. Và thực sự, nếu có chiến lược tốt, DN hoàn toàn có cơ hội tiếp cận
nguồn vốn đầu tư từ các quỹ đầu tư mạo hiểm đang xuất hiện ngày càng nhiều ở
Việt Nam... Chưa bao giờ khoa học nước nhà lại có cơ hội thuận lợi như bây giờ
với hàng loạt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được ban hành về phát
triển KH&CN". Để biến những "cơ hội
vàng" ấy thành những sản phẩm mang lại hàm lượng giá trị gia tăng cao,
hơn lúc nào hết, cộng đồng DN nước ta phải được coi là trung tâm của đổi mới
với nhận thức rằng sáng tạo công nghệ có thể thương mại hóa. Hướng đi ấy
cũng phù hợp với quan điểm từng bước xây dựng nền kinh tế tri thức của Đảng và
Nhà nước ta trong những năm sắp tới. Bên cạnh cần phải có những giải pháp mạnh
để phát triển nguồn nhân lực KH&CN chất
lượng cao. Chính nguồn nhân lực này sẽ là cái bảo đảm cho chúng ta không chỉ
tiếp thu, làm chủ, mà còn vận dụng và phát triển được tri thức khoa học và các
công nghệ cao, công nghệ mũi nhọn. Nếu thiếu đội ngũ này, cho dù đất nước có mở
cửa, các công ty nước ngoài có thật sự mang công nghệ tiên tiến vào thì chúng
ta vẫn không thể làm chủ, nội địa hóa và phát triển được những công nghệ ấy.
Kết quả là chúng ta tiếp tục lệ thuộc họ cả về công nghệ và vốn. Ðây là một nguy
cơ lớn, đe dọa chiến lược đi tắt đón đầu. Cần thật tâm chú ý đến chất lượng thật
sự của lao động khoa học, hạn chế tính hình thức, khoa trương, cơ hội trong các
hoạt động này, khắc phục tình trạng phân tán, lãng phí các nguồn lực, nâng cao
năng lực cạnh tranh và hoạt động thực tiễn của các cơ sở đào tạo, nghiên cứu.
-
Chính sách của chính phủ đang điều chỉnh để hướng đến đổi mới trong nền kinh tế
Chính phủ đang từng bước điều chỉnh chính sách của mình để nâng tầm quan trọng của khoa học, công nghệ và đổi mới, đã thực hiện các sáng kiến quy mô lớn để cải cách khoa
học và công nghệ,và đổi mới.
Tại một số nước tiên tiến, hỗ trợ cho các nghiên
cứu cơ bản đã tăng hơn 10% từ ngân sách. Những nỗ lực này thường nhằm mục đích tăng cường sự đóng
góp của khoa học để tăng trưởng kinh tế và cũng để giải quyết những thách thức của môi trường.
Đất nước đang tiến hành cải cách
các trường đại học với một quan điểm tự chủ lớn hơn, nguồn tài trợ dựa trên cạnh tranh và hiệu quả nhiều hơn và việc thương mại hóa các kết
quả nghiên cứu công. Các qui luật chi
phối các mối quan hệ khoa học công nghệ cũng đang trải qua những
cải cách. Nhiều sự chú ý cũng được dành
cho các khu
vực tăng trưởng mới như công nghệ sinh học và chương trình xúc tiến thương mại của các công ty mới khởi sự, ví dụ thông qua hỗ trợ từ thị trường vốn mạo
hiểm và việc cải cách quy định. Vai trò của mạng lưới ngày càng được công nhận: kinh phí cho R & D được liên kết chặt chẽ hơn với
việc cộng
tác trong nhóm nghiên cứu, tương tác khoa học-công nghiệp đang là mục tiêu quan
trọng của chính sách đồng
thời nhấn
mạnh sự hình thành của các cụm. Có việc
chú ý nhiều hơn đến cơ chế khuyến khích đối với các nhà nghiên cứu
cũng như
các chính sách để tăng tính cơ động của nhân sự bên trong hệ thống khoa học cũng như giữa khoa học và công nghiệp. Sự
dịch chuyển mang tính quốc tế của các
các nhân sự có tay nghề cao và các lo ngại về chảy máu chất
xám cũng là chủ đề chính cho nước ta.
Khoa học kỹ thuật là một lĩnh vực cần được quan tâm thường xuyên. Chính
phủ cần làm việc với các doanh nghiệp,
các nhà nghiên cứu và các đối tác khác để thiết kế và thực hiện chính sách, vì
việc gắn bó tích cực này giúp thúc đẩy các bên liên quan giữ vững được thành quả lâu
dài từ những thay đổi tốt hơn đã đem lại.
Rất khó để đánh giá xem liệu những thay đổi đang được thực hiện hiện nay sẽ
có đủ hiệu quả hay chưa. Những thực hành tốt nhất sẽ tiếp tục phát triển, song song với việc cần phải xem xét lại chính sách. Chính phủ gần đây đã cam kết cải cách và điều
này được xem chỉ là một bước đầu tiên nhằm hướng tới việc đổi mới hệ
thống hiệu quả hơn. Vẫn còn nhiều phạm vi đòi hỏi phải có sự tiến bộ hơn nữa và vẫn cần học hỏi các phương pháp tiếp cận
thành công đối với với tiến bộ khoa học, đổi
mới và tăng trưởng kinh tế.
Chiến lược phát triển khoa
học và công nghệ 2011-2020 xác định rõ quan điểm, mục tiêu, định hướng, nhiệm
vụ và giải pháp chủ yếu để phát triển khoa học và công nghệ. Chiến lược nhấn
mạnh yêu cầu phát triển đồng bộ khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên,
khoa học kỹ thuật và công nghệ, qua đó thực sự trở thành động lực phát triển.
Chiến lược phát triển khoa học công nghệ giai đoạn 2011 - 2020 sẽ phải thay đổi
cách quản lý tài chính đối với cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia nghiên cứu
khoa học; đối với công tác nghiên cứu và triển khai các đề tài khoa học theo
hướng quản lý đề tài khoa học theo các sản phẩm đầu ra.
- Việc nâng đỡ của Chính Phủ đối với các công nghệ mang tính thương mại cần phải có tính chọn lọc
Trong một số
trường hợp, chính phủ đưa ra một số lý do thuyết
phục để trực tiếp tăng cường
sự phát triển và áp
dụng công nghệ cho
một số lĩnh vực công chịu phụ thuộc nhiều vào các công nghệ tiên
tiến như đóng tàu, bảo đảm an ninh quốc gia và bảo vệ môi trường.
Các dạng sản phẩm công nghệ cao khác như khung máy bay và động cơ máy
bay, vệ tinh, bán dẫn, công nghệ sinh học, năng lượng hạt nhân, các
thiết bị hóa sinh và dược phẩm thì vẫn hảy còn khá và rất khiêm
tốn trong các nghiên cứu, phát triển của Việt Nam. Công nghiệp phụ
trợ của Việt Nam đến nay vẫn chưa tạo ra dấu ấn rõ rệt.
Nhà nước đã quan tâm xây dựng các
khu công nghệ cao mang tính tiền đề để hình thành các kỹ nghệ mới
hay chuyển đổi các công nghệ hiện có để tạo ra năng suất cao cho xã hội nói chung,
nhưng việc phát triển vẫn còn chưa được khu vực đầu tư tư nhân tiếp
nhận do lo sợ rủi ro. Việc xây dựng các trung tâm mầm này nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy hàng loạt các loại hình hoạt
động công nghệ của các công ty trong gần và trung hạn nhưng vẫn chưa
có khả năng mang lại lợi nhuận riêng hấp dẫn. Các ví dụ về những
loại công nghệ này như việc phát triển các phương pháp công nghệ, biên
soạn và đánh giá các dữ liệu kỹ thuật, các công cụ đo lường và
tạo ra sự tinh tế cao hơn cho các quá trình sản xuất.
Việc xác định các
công nghệ đáp ứng được các tiêu chí này là việc làm khó khăn và
đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng thời của hai khu vực công và tư.
Khái niệm về vai trò của nhà nước trong hỗ
trợ việc phát triển các công nghệ mang tính thương mại có thể gây ra
nhiều tranh cải. Các công ty được thúc đẩy bởi các lực thị trường
và được đánh giá theo thành tích của nó trong việc thỏa mãn nhu cầu
thị trường nên sẽ dễ được chấp nhận hơn so với việc chính phủ đầu
tư vào các công nghệ mới với các mức thưởng phạt to lớn. Không bị
chi phối bởi các lực lượng thị trường và việc đánh giá bình phẩm,
việc hỗ trợ của nhà nước cho các rủi ro công nghệ mang tính thương
mại thường bị chi phối bởi các cân nhắc mang tính chính trị nhiều
hơn là kinh tế.
Để duy trì sự nâng đỡ công đối với việc phát
triển công nghệ, chính phủ cần phải phát triển các tiêu chí và các
cơ chế cho việc đánh giá, phản hồi và các học chế để từ đó có
thể phân định rõ và có hiểu biết tốt hơn về các thành công cũng như
thất bại. Chính phủ phải
được chuẩn bị đầy đủ để loại bỏ các chương trình không hoạt động tốt và thực hiện tái phân bổ nguồn lực cho
các chương trình nào tỏ ra có
hiệu quả. Nỗ lực Nghiên Cứu và Phát Triển của
chính phủ cũng nên tránh cạnh tranh với các công ty thương mại, sau đó chính phủ có thể làm việc hiệu quả hơn với
các lực lượng thị trường và
khu vực tư nhân để tận dụng sức mạnh quốc gia về
khoa học, công
nghệ nhằm nâng cao năng
suất lẫn tăng
trưởng kinh tế.
-
Các trách
nhiệm công và tư nên mang tính đồng bộ trong các lĩnh vực công nghệ
dân sự
Sự phức tạp mang tính hàn lâm
không tạo thuận lợi cho việc tiến hành một phân tích so sánh về trách
nhiệm công và
tư trong công nghệ dân sự. Nhưng nó
giúp phân
tích các vai trò của các
tổ chức công và tư trong một số lĩnh vực công nghệ. Các phân tích này chỉ hướng
tới một số cách thức mà trong đó chính phủ có thể
đóng vai trò xây dựng trong việc phát triển và phổ biến công nghệ.
-
Công Nghệ
Thông Tin
15 năm trở lại đây, có thể coi là thời kỳ tăng trưởng
của thị trường viễn thông- tin học. Kỹ sư viễn thông với công việc cụ thể như
thiết kế mạng, lắp ráp thiết bị, bảo hành bảo trì, quản trị mạng...trở nên
"hot" và sáng giá hơn so với nhiều nghề khác.
Các thiết bị di động thông minh ngày càng trở nên phổ
biến thì nội dung trao đổi trên mạng di động (công nghệ phần mềm) mới là yếu tố
gây ra sự bùng nổ các loại hình dịch vụ kinh doanh khác nhau như:
Truyền hình di động, game di động, thương mại điện tử, thanh toán di động...
Như vậy nhu cầu nguồn nhân lực viễn thông đang có sự
thay đổi, chuyển từ dịch vụ cung cấp thiết bị viễn thông phần cứng sang dịch vụ
mới- cung ứng phần mềm đa phương tiện cho khách hàng sử dụng.
Khi dữ liệu được lưu trữ và trao đổi trên mạng ngày
càng lớn, thì nhu cầu bảo mật thông tin trên mạng cũng ngày càng cao, tất yếu
có một ngành mới: Sự ra đời của an toàn thông tin trên mạng.
Bức tranh đào tạo nghề Công Nghệ Thông Tin và Truyền Thông (ICT) đang
thay đổi:
- Xã hội kết nối và điện toán đám mây- xu thế công
nghệ tương lai
- Điện toán đám mây trong xã hội kết nối và bài toán
nguồn nhân lực ICT.
Sự tiến bộ nhanh chóng hướng tới
một môi trường phát triển hài hòa cho quốc gia của dịch vụ
thông tin có liên quan đến nhau và các năng lực sẽ mang lại giá trị cho đất
nước. Một tập hợp hợp lý các dịch vụ
công và tư khó có thể xuất hiện nếu chỉ xuất phát từ các hành
động của các lực lượng thị
trường. Tuy nhiên, vai trò
thích hợp của chính phủ là trở
thành một đối tác và tham gia với khu vực
tư nhân và thực thi chức năng là cơ quan
quản lý của mình với sự
kiềm chế thỏa
đáng.
Hiện nay, khoa học và
công nghệ đang có vai trò to lớn trong việc hình thành nền “kinh tế tri thức”
và “xã hội thông tin” , phát triển hàm lượng trí tuệ cao trong sản xuất, dịch
vụ và quản lý ở tất cả các quốc gia. Vì vậy, đầu tư cho khoa học và công nghệ là
đầu tư cơ bản để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, là loại đầu tư ngắn
nhất và tiết kiệm nhất để hiện đại hóa nền sản xuất xã hội và hiện đại hóa dân
tộc. Cuộc chạy đua phát triển kinh tế - xã hội trên thế giới hiện nay thực chất
là cuộc chạy đua về khoa học và công nghệ, chạy đua nâng cao chất lượng và hiệu
quả lao động trên cơ sở hiện đại hóa nguồn nhân lực. Hiện nay khoa học và công
nghệ giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại,
bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao các yếu tố năng suất, chất lượng,
hiệu qủa, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
-
Công nghệ y sinh học
Công nghệ y sinh học mới thường xuất phát từ nỗ lực chung của khu vực công và tư. Các phòng thí nghiệm cho nghiên cứu, của chính phủ và khu vực kỹ nghệ đều liên quan đến sự phát triển của nhiều loại công nghệ mới, và những ý tưởng cũng như những người làm công tác dịch chuyển qua lại một cách nhanh chóng trong tất cả ba loại hình tổ chức này. Các nỗ lực kiểm soát chi phí và điều chỉnh cho chăm sóc sức khỏe cần được thiết kế để khuyến khích việc thử nghiệm và khám phá công nghệ bảo đãm liên tục.
Một số các kỳ vọng của chúng ta trong việc cải thiện các nghiên
cứu y tế và chăm sóc y tế của Việt Nam trong thời gian đến có thể kể ra
như sau:
-
Các vắc xin cải tiến VLP (Các hạt giống Virus) và các
tá dược mới
-
Tế bào đuôi gai cho liệu pháp vacxin ung thư
-
Các tế bào gốc
-
Kháng thể đơn dòng
(mAb)
-
Chỉ dấu sinh học
(Biomarkers)
Ngoài ra cần
tiến hành điều phối các kết
quả nghiên cứu và phát triển (như là các nguyên mẫu chẩn đoán và điều trị)
với các công ty dược phẩm để thúc đẩy sự phát triển của ngành dược phẩm sinh
học TPHCM và thực hành quyền sở hữu trí tuệ (IP) đối với Nghiên Cứu và
Phát Triển dựa trên tri thức và phát triển sản phẩm, các cải tiến theo nhu
cầu để sản xuất các loại thuốc thiết yếu (như là các loại thuốc sinh học) dễ
tiếp cận đối với phần đông dân số VN.
Y học cổ truyền có một vai trò lớn trong nước, nhưng chiến lược thích hợp để bảo vệ y học cổ truyền vẫn còn chưa rõ nét. Một dự
án quan trọng cho một phòng thí nghiệm dược phẩm mới chuyên về bào chế các
loại thuốc thảo dược đang được tiến hành tại TP HCM, nhưng làm thế nào để
chuyển các kiến thức thảo dược thành các sản phẩm, và làm thế nào để sử dụng
bảo vệ bằng sáng chế cho các loại thuốc thảo dược-nếu có–thì rõ ràng đây là
một lĩnh vực cần hỗ trợ.
Mặt khác thế mạnh củng như
tiềm năng của nền kinh tế Việt Nam vẩn là nông nghiệp. Nếu ta lấy ngành công
nghệ sinh học làm nền tảng, và bắt đầu bằng công nghệ sinh học phục vụ cho
nông nghiệp như:
- Lại tạo ra giống cây trồng vật nuôi có thể
thích nghi với sự biến đổi khí hậu tới đây tại Việt Nam. Cải tạo chất lượng
cây, con nhầm có thể chống lại nhưng vi khuẩn hay sâu bọ gây hại mà không cần
đến thuốc trừ sâu, giảm bớt và tiến đến loại bỏ sử dụng nhửng hóa chất có thành
phần độc hại trong sản xuất nông nghiệp.
- Thông qua công nghệ sinh học người ta có thể
cải tạo được môi trường thiên nhiên như đất, nước, không khí, đồng thời có thể
tạo ra phân bón hửu cơ, nhửng thực phẩm từ cây, con không sử dụng các thức ăn
có sử dụng các hóa chất độc hại nhầm bảo vệ được sức khỏe cho con người. Đây là
nhửng sản phẩm có chất lượng và giá trị kinh tế cao hiện nay.
- Thông qua công nghệ sinh học chúng ta có thể
chế biến các phụ phẩm, phế phẩm thành nhửng sản phẩm mới như bao bì thay thế
cho loại chất dẻo từ ngành hóa dầu, năng lượng sinh học v.v...
- Những bước phát triển tiếp theo đó là công
nghệ sinh học đi vào lảnh vực y- dược, ngành mỷ phẩm. và xa hơn nửa đó là qua
kỷ thuật biến đổi gen sẻ tạo nên nhưng loài cây, con mới, nhửng sinh vật mới,
nhửng sản phẩm mới. hướng nghiên cứu và phát triển của ngành sinh học đả là
ngành mủi nhọn của thời đại hiện nay và tương lai…
Thì khi ấy chúng ta sẽ
không chỉ có được một nền nông nghiệp hiện đại cho nước nhà mà còn giải quyết
được vấn đề bảo vệ môi trường, góp phần to lớn cho bài toán nông nghiệp, nông
thôn, nông dân. Như vậy con đường công nghiệp hoá của nước ta sẻ ít phải trả
giá về môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội hơn. Sự tăng trưởng kinh
tế theo hướng GDP xanh sẽ hiện thực hơn.
-
Các hệ
thống công nghiệp
Chúng ta thử tìm hiểu xem dịch vụ được cung
cấp và hàng hóa được sản
xuất, cung cấp, sử dụng và xử lý có ảnh hưởng
như thế nào đến môi
trường. Một hệ sinh
thái của ngành công nghiệp được đặc
trưng bởi toàn bộ hệ thống
sản xuất và tiêu thụ là một
khái niệm có thể được sử dụng
để nâng cao chất
lượng môi trường. Những tiến bộ trong công nghệ, thường được áp dụng bởi các công
ty tư nhân, cho thấy các cơ
hội chính cho sự cải tiến ở bên trong các
hệ thống tích hợp này. Ngoài ra
còn có cơ hội để cho xã hội trở nên
ít phụ thuộc vào tài nguyên cũng như phát
triển và khai thác các vật liệu, các quy trình và các hệ thống an toàn hơn về mặt môi trường khi sử dụng các công nghệ gây nhiều nhạy cảm với môi
trường. Quyết định của công
ty và sự lựa chọn cá nhân của người
tiêu dùng là yếu tố
quyết định quan trọng đến chất
lượng môi trường. Thế
kỷ 21 đưa ra một bối cảnh công nghiệp bị chi phối bởi các mạng lưới chiến
lược.
Đồng thời có sự xuất hiện việc thu hút kỹ năng
và kiến thức về khoa học công nghệ, sản phẩm, dịch vụ và hệ thống kinh doanh
với nhau vào “các mạng lưới đổi mới”'. Các thành viên chính trong các mạng lưới
này bao gồm các công ty, viện nghiên cứu, viện đào tạo và tổ chức kiến thức
chuyên sâu như các trường đại học và bệnh viện. Mạng lưới đổi mới liên tục thay
đổi khi các thành viên chính của nó đưa ra các quyết định nên mở rộng hoặc giảm
bớt sự tiếp cận vào các mạng lưới, nên mở cửa cho các thành viên mới hoặc “đóng
cửa”. Nhưng đáng kể nhất là các mạng lưới đổi mới này vượt ra khỏi biên giới
của quốc gia. Trong bối cảnh ấy, các chiến lược muốn đạt được và duy trì sự
tiếp cận nguồn nhân lực cho các công nghệ chủ chốt theo nhu cầu toàn cầu
cần phải mang tính hợp tác hơn là cạnh tranh.
-
Bối cảnh quốc tế về đổi mới
đầu tư vào Nghiên Cứu
và Phát Triển cần được chú ý
nhiều hơn
Chính
sách gây ảnh hưởng đến sự phát
triển và áp dụng
công nghệ phải thể hiện hai xu hướng củng cố
lẫn nhau nhằm xây dựng mạng lưới
toàn cầu của Nghiên Cứu và Phát Triển, sản xuất và tiếp
thị: mở rộng thương mại quốc tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài, các liên minh của công ty và hội tụ được khả năng
công nghệ của các nước công nghiệp.
Đã có sự phụ thuộc
lẫn nhau về kinh tế và kỹ thuật giữa các
quốc gia đang phát triển, và sự phụ thuộc
lẫn nhau ngày càng tăng này đang tạo
ra cả cơ hội lẫn thách
thức đối với cả hai khu vực tư và công. Nó sẽ mở
ra cánh cửa cho các thị
trường mới, công nghệ mới, và các
nguồn mới của sự
cạnh tranh, làm thúc đẩy sự sáng
tạo, năng
suất của các công ty và người lao
động Việt Nam. Nhiều
trong số các thị trường phát
triển nhanh nhất hiện nay là ở các
nước khác, và việc gia tăng sự cởi mở trong thương
mại tạo cho các công
ty cơ hội để cạnh
tranh trong các thị
trường này. Phụ thuộc lẫn nhau ở cấp độ quốc tế cũng giúp phổ biến
các công nghệ và thực tiễn quản lý mới. Tất cả
những yếu tố này có thể
góp phần vào việc gia tăng năng suất, tạo
ra sự thịnh vượng, sự tăng trưởng việc làm và các tiêu chuẩn sống
cao hơn cho người dân Việt Nam. Đồng thời, sự
tăng cường
phụ thuộc lẫn nhau đã đẩy nhanh tốc độ chuyễn dịch cơ cấu, tổ chức trong nền kinh tế Việt Nam, làm tăng nhu cầu đối với các
cá nhân, tổ
chức và cộng đồng để thích ứng với hoàn cảnh thay đổi. Những ai có thể đáp ứng được
nhu cầu mới có thể gặt hái lợi ích đáng kể, nhưng với những người không thể thích ứng một cách nhanh chóng và
hiệu quả có thể gặp phải khó khăn kinh tế nghiêm
trọng. Sự mất kiểm soát trên thị trường trong nước được liên kết với sự phụ thuộc quốc tế lẫn nhau cũng rất có khả năng làm phức tạp thêm nhiệm vụ thúc đẩy các lợi ích cho quốc gia đối với các mặt kinh tế, chính trị và quân sự.
Ngoài ra, sự thay đổi trong cán cân sức mạnh kinh tế và công nghệ giữa các quốc
gia có thể làm gia tăng mối lo ngại về tiếp cận thị trường và các tài sản công nghệ. Sản phẩm công nghệ cao và việc phát triển chúng đòi hỏi một sự chú ý đặc biệt dưới
ánh sáng về tầm quan trọng của chúng đối với nền kinh tế quốc gia và bởi vì các ngành công
nghiệp này là mục tiêu của các chính sách công nghiệp cho
nhiều đối tượng tham gia trong hệ thống thương
mại đa phương.
Một thách thức cụ thể đã được tăng cường xuất phát từ việc phụ thuộc quốc tế có liên quan đến việc bảo vệ
quyền
sở hữu trí tuệ. Ngày nay, khả năng
cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp được xác định bởi khả năng của họ trong phát triển, thương mại hóa, và quan trọng nhất là thu được các lợi ích kinh tế từ sự đổi mới. Quyền sở hữu
trí tuệ, chẳng hạn như quyền sáng chế và bản quyền, cho phép các công ty bảo vệ
các khoản đầu tư của họ trong việc Đổi Mới và Nghiên Cứu và Phát Triển. Nhưng với sự
đổi mới đang
lan tỏa một cách nhanh chóng trên toàn
cầu
thì việc bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ cần phải được mở rộng ra quy mô quốc tế nhằm duy trì các ưu đãi hiện hành cho các công ty trong việc Đổi Mới và đầu tư vào Nghiên Cứu và Phát Triển.
Phát
triển sự phụ thuộc quốc tế lẫn nhau
không phải không có cái giá của nó, nhưng dựa trên quan
điểm cân bằng thì xu hướng
này là một lực lượng tích cực cho cả Việt
Nam và cho phần còn lại của
thế giới. Hơn nữa, không thể đảo ngược hoặc bị chậm lại một cách đáng kể mà không
có chi
phí không thể chấp nhận đối với người
dân và phần còn lại của thế giới. Câu hỏi quan trọng ở
đây là làm thế nào để đối phó với xu
hướng này hiệu quả hơn để chúng
ta có
thể tối đa hóa các lợi ích liên quan, giảm
đi các chi phí gắn kết và
tìm cách để phân phối cả lợi ích lẫn chi phí trong quá trình toàn cầu hóa một cách
công bằng và hài hoà hơn ở tại sân nhà.
Một trường hợp điển hình là sự tham gia ngày càng tăng của các công ty, các nhà nghiên cứu và sinh viên nước ngoài ở Việt Nam trong Nghiên Cứu và Phát Triển. Thông qua các liên minh xuyên quốc gia và đầu tư trực tiếp vào các công ty Việt Nam, các công ty nước ngoài đang ngày càng tham gia nhiều vào các cơ sở Nghiên Cứu và Phát Triển công nghiệp của Việt Nam. Tương tự như vậy, sinh viên nước ngoài, các nhà nghiên cứu và các công ty đang ngày càng tham gia nhiều hơn vào các chương trình Nghiên Cứu và Phát Triển được tài trợ bởi nhà nước và được thực hiện trong các trường đại học nghiên cứu của Việt Nam và các phòng thí nghiệm ở các địa phương.
Một số các nhà làm chính sách và các
nhà lãnh đạo doanh nghiệp cũng nên bắt đầu từng bước vạch ra
biện pháp đối phó với việc chuyển giao công nghệ được phát triển tại Việt
Nam sang các nước khác và về một sự mất mát tương ứng các cơ hội cho công dân Việt Nam trong tương lai gần. Mối quan tâm được tăng cường khi các công nghệ có
ý nghĩa an ninh quốc gia tiềm năng hoặc khi các tổ chức nước ngoài liên quan
đến có nguồn gốc từ các nước từ chối việc
tiếp cận đối ứng với công dân Việt trên các thị trường và các tài sản Nghiên Cứu và Phát Triển trong nước.
Hiện đang tồn tại một sự căng thẳng gia tăng giữa ý tưởng về phụ thuộc, sự cởi mở lẫn nhau ngày càng tăng trên quy mô quốc tế với những vấn đề chưa
được giải quyết hiện tại trong cạnh tranh công nghệ cao. Phương pháp thường được dùng là đi đến "luật chơi" cùng có
lợi cho các tập đoàn xuyên quốc gia,
đất nước
của họ và nước sở tại. Các quy tắc bao gồm một loạt các chính sách, bao gồm cả hạn
chế chống độc quyền, mua sắm chính phủ, quyền sở hữu trí tuệ, mục tiêu công
nghiệp và thực hành trợ cấp, đầu tư trực tiếp nước ngoài, nội dung chính quyền đô thị và xây dựng tiêu chuẩn quốc tế. Trong
khi tiếp tục để tìm các giải
pháp cho các vấn đề chưa được giải quyết, chính phủ cần tiếp tục nỗ lực để mở rộng thị trường nước ngoài đối với
thương mại và đầu tư của Việt Nam thông qua thương
lượng trong các diễn đàn song phương và đa phương.
Khả năng của đất nước trong việc nắm bắt những
lợi ích của các doanh nghiệp kỹ
thuật mang tính quốc tế sẽ phụ
thuộc chủ yếu vào sự thành công của các
tập đoàn tư nhân nước ngoài hoạt động trong lãnh thổ Việt Nam thông qua việc nắm
bắt các cơ hội đem lại trên cơ sở
công nghệ toàn cầu đang nổi lên. Những nhà hoạch định chính sách có thể
gây ảnh hưởng đến sự thành
công này bằng cách công nhận sự
độc lập lẫn nhau của các chính
sách trong nước và quốc tế nào có ảnh
hưởng đến phát triển và áp dụng công nghệ.
-
Cần sự cảnh
giác thường xuyên để bảo đãm tính cạnh tranh công nghệ của Việt Nam
Cho đến
nay, nhiều công ty Việt Nam
trước kia bị cho là kém hiệu
quả hơn so với đối thủ cạnh tranh nước ngoài đang khai thác tại đầu ra của Nghiên Cứu và Phát Triển đang được nhường chỗ cho một cái nhìn lạc quan hơn. Thông qua những nỗ lực tập thể của họ, các công ty Việt Nam hiện nay từng bước tỏ ra có hiệu quả hơn trong việc đáp ứng với sự cạnh
tranh từ nước ngoài. Nhìn chung, nền kinh tế Việt Nam đã phát hiện được những khiếm
khuyết cơ bản của mình và bước đầu đã tăng cường được tính hiệu quả
và tính cạnh tranh trên thế giới. Trong nhiều lĩnh vực công nghệ, khu vực công và tư đã bước
đầu làm việc với nhau hiệu quả để kết hợp các năng lực bổ sung cho nhau.
Sự hợp tác tiếp tục giữa khu vực công và tư sẽ rất cần thiết để đáp ứng các mục tiêu về hai mặt công nghiệp và công ích nói chung. Các công nghệ mới và những mối quan tâm mới sẽ tiếp tục xuất hiện. Cân bằng các lợi ích và những rủi ro từ sự thay đổi sẽ yêu cầu sự giao tiếp, lập kế hoạch và hợp tác giữa chính phủ với doanh nghiệp.
Kết luận:
Trong quá trình thực hiện công
cuộc đổi mới, mặc dù điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, nhưng dưới sự quan
tâm của Đảng, Nhà nước, sự nỗ lực, tâm huyết của đội ngũ các nhà khoa học, sự
cố gắng của các doanh nghiệp và nhân dân, khoa học và công nghệ nước ta đã đạt
nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Khoa học xã hội và nhân văn đã
cung cấp luận cứ cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước; góp phần xây dựng hệ thống quan điểm phát triển
đất nước; khẳng định lịch sử hình thành và phát triển dân tộc, chủ quyền quốc
gia và toàn vẹn lãnh thổ, bảo tồn các giá trị và bản sắc văn hóa Việt Nam.
Khoa học tự nhiên đã có bước phát
triển trong nghiên cứu cơ bản, tạo cơ sở cho việc hình thành một số lĩnh vực
khoa học và công nghệ đa ngành mới, góp phần nâng cao trình độ và năng lực của
khoa học cơ bản.
Khoa học kỹ thuật và công nghệ đã
đóng góp tích cực vào việc nâng cao năng suất, chất lượng hàng hóa và dịch vụ;
cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế; một số lĩnh vực
đã tiếp cận trình độ tiên tiến khu vực và thế giới.
Tiềm lực khoa học và công nghệ
được nâng lên. Quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ từng bước được đổi
mới. Hệ thống pháp luật về khoa học và công nghệ được chú trọng hoàn thiện.
Thị trường khoa học và công nghệ
đã được hình thành và bước đầu phát huy tác dụng. Hợp tác quốc tế được đẩy mạnh
và chủ động hơn trong một số lĩnh vực, góp phần nâng cao năng lực, trình độ
khoa học và công nghệ trong nước.
Tuy nhiên, hoạt động khoa học và
công nghệ nhìn chung còn trầm lắng, chưa thực sự trở thành động lực phát triển
kinh tế - xã hội. Việc huy động nguồn lực của xã hội vào hoạt động khoa học và
công nghệ chưa được chú trọng; đầu tư cho khoa học và công nghệ còn thấp, hiệu
quả sử dụng chưa cao.
Việc đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ
cán bộ khoa học và công nghệ còn nhiều bất cập. Cơ chế quản lý hoạt động khoa
học và công nghệ chậm được đổi mới. Công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển
khoa học công nghệ chưa gắn với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; cơ chế tài
chính còn chưa hợp lý cho đến trước đây chỉ một năm.
Thị trường khoa học và công nghệ
phát triển chậm, chưa gắn kết chặt chẽ kết quả nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo
với nhu cầu sản xuất, kinh doanh và quản lý. Hợp tác quốc tế về khoa học và
công nghệ còn thiếu định hướng chiến lược, hiệu quả thấp.
Để giải quyết cơ bản các vướng mắt nêu trên, Nghị quyết Trung
ương 6 về phát triển khoa học và công nghệ thì Nhiệm Vụ và Giải Pháp từ
đây đến 2020 đã đưa ra các giải pháp đi vào trọng điểm:
1- Đổi mới tư duy, tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển khoa
học và công nghệ
2- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng
bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa học và công nghệ
- Đổi mới hệ thống tổ chức khoa
học và công nghệ
- Đổi mới cơ chế hoạt động của
các tổ chức khoa học và công nghệ
- Đổi mới quy hoạch phát triển
nguồn nhân lực, cơ chế, chính sách sử dụng và trọng dụng cán bộ khoa học và
công nghệ
- Kiện toàn, nâng cao năng lực bộ
máy quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ
- Thực hành dân chủ, tôn trọng và
phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, tư vấn, phản biện
của các nhà khoa học.
3- Triển khai các định hướng
nhiệm vụ khoa học và công nghệ chủ yếu
- Tăng cường nghiên cứu cơ bản,
nghiên cứu phục vụ hoạch định đường lối, chính sách phát triển đất nước, bảo
đảm quốc phòng, an ninh và mục đích công cộng
- Ưu tiên phát triển một số công
nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ liên ngành
- Đẩy mạnh ứng dụng, phát triển
khoa học và công nghệ trong các ngành, lĩnh vực, vùng, địa phương
4- Phát huy và tăng cường tiềm
lực khoa học và công nghệ quốc gia
5- Phát triển thị trường khoa học
và công nghệ
6- Hợp tác và hội nhập quốc tế về
khoa học và công nghệ
Mặt khác cần lưu ý là ở nước ta,
trong khi hoạt động truyền thông nói chung đã được chú trọng và phát triển mạnh
(đặc biệt về bóng đá, sức khỏe, tình cảm, văn hóa), thì truyền thông KHCN
trong cả nước nhìn chung chưa đạt được nhiều kết quả như mong muốn. Số lượng
bài báo, chương trình truyền hình, phát thanh về KHCN chưa nhiều, các
chuyên mục truyền thông cho KHCN chưa phong phú. Công tác tuyên truyền KHCN
chưa đồng bộ, rộng khắp, chưa có trọng tâm, trọng điểm, còn thiếu cơ chế, kế
hoạch phối hợp giữa các đơn vị thuộc Bộ KHCN, giữa Bộ với các Sở KHCN, các tổ chức
KHCN và các cơ quan thông tin đại chúng. Đó chính một trong những hạn chế làm
cho KHCN chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển kinh tế- xã hội.Nhiệm vụ to lớn của công tác truyền thông KHCN đã được khẳng định trong các văn kiện quan trọng như Chiến lược phát triển KHCN giai đoạn 2011 - 2020; Nghị quyết Trung ương 6 về phát triển KHCN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; Luật KHCN sửa đổi.
Việc ra mắt Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia vào
ngày 8 tháng 1 năm 2015 với giá trị 1.000 tỉ đồng thể hiện quyết tâm của Chính
phủ nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng
trưởng theo hướng lấy khoa học công nghệ và hoạt động đổi mới sáng tạo làm nền
tảng, tạo động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước. Thủ tướng chỉ ra
rằng trong thời đại toàn cầu hóa, có sự
cạnh tranh quyết liệt để phát triển; quốc gia nào ứng dụng được nhanh, được tốt
khoa học - công nghệ mới, quốc gia đó sẽ phát triển nhanh và bền vững. Việc ra
đời và đi vào hoạt động của Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia là một giải pháp góp
phần tích cực vào sự nghiệp phát triển khoa học - công nghệ của đất nước. Thủ
tướng yêu cầu Bộ KH-CN chỉ đạo, thực hiện thật tốt các chức năng, nhiệm vụ được
giao của Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
với mục tiêu hoạt động quỹ ngày càng hiệu quả, đóng góp tích cực hoạt động đổi
mới công nghệ của doanh nghiệp, của đất nước cũng như nâng cao sức cạnh tranh
của nền kinh tế.
Hy vọng trong thời gian tới, công tác truyền
thông sẽ đưa KHCN thấm vào xã hội một cách tự nhiên, tạo ra sự thích thú, phấn
khích và hình ảnh gần gũi của khoa học, đưa KHCN gần với người dân.
Tài Liệu Tham Khảo
Nghị quyết Trung ương 6 về phát triển
khoa học và công nghệ thì Nhiệm Vụ và Giải Pháp đến 2020
Cấu trúc Kinh tế và Rủi Ro thời Hội Nhập, TsKH Trần Quang Thắng, hội thảo phía Nam tại
trường Đại học Nguyễn tất Thành, tháng 1 năm 2015.
TBT, hai mặt của một vấn đề, TsKH Trần Quang Thắng, hội thảo phía Nam tại
trường Đại học Nguyễn tất Thành., tháng 12, năm 2014
Tương Lai Của Khoa Học Công Nghệ Đối Với Phát
Triển Kinh Tế Việt Nam Trong Tương Lai Sẽ Ra Sao? TsKH Trần Quang Thắng, Sách: “Điển nhấn hội
nhập”,
công ty cổ phần tri thức doanh nghiệp quốc tế.
Lundvall .B-A. (1992). « National
systems of innovation: towards a theory of innovation and interactive learning
», Londres, printer.
Metcalfe, J. (1994). « Evolutionary
economics and technology policy », The Economic Journal, n°104: p 931-944.
Mezouaghi. M. (2002) « Les approches
du système national d’innovation : les économies semi-industrialisées »,
Revue Tiers Monde, n169 : 189-212.
Văn Minh
No comments:
Post a Comment