Wednesday, February 25, 2015

Để Khoa học – Công nghệ trở thành động lực phát triển kinh tế đất nước

TSKH Trần Quang Thắng  Phó Chủ tịch Hội Tư vấn HASCON, Viện trưởng Viện Kinh Tế và Quản lý TP. HCM,           Chúng ta biết rằng sáu động lực chính cho phát triển dài hạn đất nước là Kinh tế, chính trị và xã hội, dân số và nhân khẩu học, các nguồn lực và môi trường, Công ăn việc làm và nguồn nhân lực, Khoa học và công nghệ.  Trong đó khoa học và công nghệ là động lực cốt lõi trong nền kinh tế.
Một số công nghệ có thể được dự báo trước như các công nghệ dựa trên sự cải tiến hay tạo ra cách dùng mới cho công nghệ củ, đồng thời củng có các thay đổi mau chóng từ những lĩnh vực cơ bản mới còn khó hiểu hết các tác động của chúng như các loại vải sợi mới, các vật liệu cấu trúc, công nghệ nano, công nghệ sinh học và công nghệ thông tin. Lấy công nghệ thông tin làm ví dụ, chúng ta thấy việc nắm bắt được nguồn thông tin, làm thế nào để tiếp cận và khai thác chúng sẽ dẫn đến thế mạnh kiểm soát. Việc thay đổi thuận lợi tình thế sẽ nằm trong tay những người có khả năng tiếp cận hầu hết các thông tin sẳn có qua internet. Làm sao để việc lưu chuyển các nguồn thông tin hữu ích, có giá trị tích cực cho cộng đồng mà vẫn bảo đảm được sự an toàn thông tin cần thiết quả thật là một thách thức lớn. Càng có nhiều thu hoạch về tri thức trong từng lĩnh vực khác nhau của khoa học và công nghệ thì chúng ta càng có nhiều cơ hội tương tác với các công nghệ khác. Điều này sẽ giúp các nổ lực được cá nhân hóa cao hơn cũng như có được các công dụng nói chung rộng rải hơn. Khoa học và công nghệ ảnh hưởng lên tất cả các động lực khác, do đó tác động của chúng là then chốt và tương đối khó dự đoán do có nhiều khả năng mới vẫn còn chưa lộ rõ ra. Trên thế giới hiện nay, KHCN phát triển rất mạnh mẽ và đã thật sự trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp. Với lợi thế của nước đi sau, nếu chúng ta có quyết sách đúng thì hoàn toàn có thể tranh thủ thời cơ, tiếp thu và làm chủ các thành tựu KHCN tiên tiến nhất phục vụ chiến lược phát triển tăng tốc, nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Ðó chính là khả năng hiện thực rất lớn của chiến lược "đi tắt, đón đầu", chiến lược phát triển dựa vào tri thức. Trong đó, vai trò của KHCN nói chung và của các trường đại học, các viện nghiên cứu, các doanh nghiệp trong nước cần phải được phát huy cao độ. Chỉ riêng hãng Apple (Mỹ), để hoàn thiện và giới thiệu ra thị trường các sản phẩm iPad 2 và iPhone 4, hãng này đã chi hơn 1,8 tỷ USD cho công tác R&D. Đổi lại, trong cùng thời kỳ, thu nhập của hãng tăng lên 22,3 tỷ USD…

Một cuộc khảo sát gần đây của Sở KHCN TP Hồ Chí Minh tại gần 700 DN hoạt động tại 12 khu công nghiệp, khu chế xuất trên địa bàn để đánh giá trình độ công nghệ cho thấy, 51% DN có trình độ công nghệ lạc hậu; chỉ có 25% đơn vị có công nghệ đạt khá trở lên. Sự lạc hậu về công nghệ và kỹ thuật đã và đang tạo ra các sản phẩm có giá trị thấp, thiếu ổn định. Chưa kể đến khả năng cạnh tranh bằng giá khi giá thành các sản phẩm trong nước thường cao hơn các sản phẩm nhập khẩu 10-30%. Đây là hệ quả việc sử dụng các công nghệ tụt hậu từ hai, ba thế hệ và chưa làm chủ được công nghệ nguồn. Rõ ràng, bức tranh công nghệ từ địa phương luôn dẫn đầu cả nước về giá trị xuất khẩu, GDP... là không sáng sủa. Giá trị gia tăng trên sản phẩm xuất khẩu của thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2014 cở 18 – 20%, trong khi các địa phương khác ở mức 5% - 8%, nếu tận dụng tốt hơn các thành tựu của Khoa học – Công nghệ thì giá trị gia tăng trong tương lai của sản phẩm xuất khẩu có thể tăng lên bình quân trên 50%.

Khoa học và công nghệ đóng vai trò hết sức quan trọng nhưng tại sao khoa học và công nghệ chưa trở thành động lực phát triển kinh tế ở nước ta?

Câu trả lời nằm ở một loạt các nền móng và định hướng tiền đề mà chúng ta chưa làm tốt như sau:
1/ Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp thúc đẩy KH-CN chưa được triển khai tốt trên thực tế:
Hoạt động KH&CN còn mang nặng tính chất kinh viện, chưa gắn kết chặt chẽ, có hiệu quả với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu của xã hội và doanh nghiệp; thành tựu KH&CN đạt được còn cục bộ, chưa mang tính hệ thống, chưa đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Cơ chế quản lý, tổ chức và hoạt động KH&CN còn tồn tại nhiều bất hợp lý. Phương thức xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ KH&CN các cấp còn trùng lặp, chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, rất ít nhiệm vụ KH&CN mang tầm quốc gia và quốc tế. Cơ chế tài chính trong hoạt động KH&CN, nhất là thủ tục thanh quyết toán nhiệm vụ KH&CN còn rườm rà, phức tạp, không phù hợp với đặc thù của hoạt động KH&CN.
Đầu tư cho KH&CN còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao. Hiện nay, tổng đầu tư xã hội dành cho KH&CN mới chỉ đạt sấp xỉ 1% GDP, trong đó ngân sách nhà nước chiếm khoảng 2/3. Trong khi ở Trung Quốc đạt khoảng 1,75% GDP, một số nước thuộc Tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) đạt khoảng trên 2% GDP và chủ yếu là từ doanh nghiệp...
Việc phân bổ nguồn kinh phí 2% ngân sách nhà nước dành cho KH&CN hàng năm theo quy định hiện hành cho 63 tỉnh, thành phố, các Bộ, ngành và 2 viện quốc gia làm cho nguồn lực tài chính bị dàn trải, phân tán và nhiều trường hợp được sử dụng không đúng mục đích, kém hiệu quả, nhất là ở các địa phương không thực sự có nhu cầu và tiềm lực KH&CN. Hệ thống tổ chức KH&CN tuy tăng nhanh về số lượng, đạt trên 1.600 tổ chức, nhưng chưa đồng bộ về các ngành, lĩnh vực do thiếu quy hoạch tổng thể. Việc chuyển đổi các tổ chức KH&CN công lập sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm triển khai còn rất chậm. Cơ sở hạ tầng - kỹ thuật và tiềm lực KH&CN quốc gia còn hạn chế, sử dụng chưa hiệu quả. Việc khai thác, sử dụng 03 khu công nghệ cao quốc gia, 17 phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia chưa thật sự hiệu quả, chưa tương xứng với sự quan tâm đầu tư của Nhà nước. Thị trường KH&CN ở nước ta mới được hình thành, chậm phát triển và còn ở trình độ sơ khai; giao dịch trên thị trường chủ yếu vẫn là các trang thiết bị, máy móc, dây chuyền sản xuất toàn bộ, mặt khác các giao dịch mua bán công nghệ ở dạng văn bằng sáng chế, bí quyết công nghệ, giải pháp hữu ích còn rất ít. Doanh nghiệp KH&CN chưa phát triển, số lượng còn quá ít nên chưa thúc đẩy gia tăng nhu cầu công nghệ trên thị trường.
Từ các Nghị quyết của Đảng, đến nay hệ thống pháp luật về KH&CN đã được ban hành tương đối đầy đủ, với 8 đạo luật đã tạo hành lang pháp lý đồng bộ, môi trường thuận lợi để thúc đẩy KH&CN phát triển.
2/ Chưa xây dựng và thực thi chính sách phát hiện, thu hút, đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ KH&CN trình độ cao, có kết quả  nghiên cứu đạt trình độ quốc tế, có sản phẩm khoa học có giá trị đối với đất nước.
3/ Chưa tạo điều kiện thuận lợi để trí thức người Việt Nam ở nước ngoài, các nhà khoa học nước ngoài tham gia hoạt động KH&CN ở Việt Nam. Đẩy mạnh hợp tác và chủ động hội nhập quốc tế về KH&CN, đặc biệt là với các địa bàn trọng điểm có công nghệ nguồn cần khai thác, giải mã và chuyển giao để phục vụ yêu cầu đổi mới công nghệ trong nước, nâng cao năng lực KH&CN quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
4/ KH&CN chưa được doanh nghiệp ứng dụng và sử dụng hiệu quả trong hoạt động sản xuất, kinh doanh để tạo ra sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ có chất lượng cao để thực sự trở thành động lực cho tăng trưởng kinh tế nếu đáp ứng nhu cầu của thị trường,.
5/ Vai trò của KH&CN chưa được nhận thức đúng đắn toàn diện trong hệ thống quản lý nhà nước cũng như việc thể hiện quyết liệt trong hành động chưa thể hiện rõ trong thực tế. Đó là nhận thức để đưa KH&CN vào chương trình hành động, kế hoạch phát triển của từng ngành, địa phương mình hay không? Đâu đó người ta vẫn làm việc và coi KH&CN như là một công tác hành chính sự nghiệp; các nhà khoa học thì như những viên chức hành chính, làm công ăn lương. Họ không đánh giá đúng và đủ vai trò của hoạt động KH&CN, chưa thừa nhận môi trường làm việc mang tính đặc thù sáng tạo của các nhà khoa học.
6/ Trong khi những nước phát triển tập trung phát triển KH&CN, sản xuất hàng hóa với hàm lượng tri thức cao, chúng ta những năm qua vẫn tập trung phát triển bề rộng với lợi thế về nguồn tài nguyên khoáng sản và nhân lực lao động rẻ. Những thế mạnh đó đến lúc cũng cạn kiệt và nếu không tập trung đầu tư phát triển KH&CN, lấy đó làm nền tảng, động lực phát triển kinh tế - xã hội, chắc chắn Việt Nam sẽ bị tụt hậu. Các nhà khoa học làm việc trong nước lại ít có công trình nghiên cứu đăng trên tạp chí nước ngoài.


7/ Việc kinh phí phát triển KH&CN từ Trung ương cấp về các địa phương bị sử dụng sai mục đích. Đáng ra kinh phí để mua sắm trang thiết bị, đào tạo, nghiên cứu KH&CN, lại được lãnh đạo quyết định dùng... làm đường, đắp đê. Đó chỉ là một ví dụ và chính những tư duy kiểu đó đã làm trì trệ, kìm hãm sự phát triển của KH&CN đất nước

8/ Hiện tại chúng ta không chỉ thiếu lực lượng KH&CN trẻ mà còn đang thiếu hụt những nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành, những tổng công trình sư, kỹ sư trưởng đủ trình độ và năng lực thực hiện những công việc lớn của đất nước.
9/ Chưa làm tốt công tác đổi mới, cải tiến hiệu quả những chính sách liên quan, nhất là khâu đãi ngộ, trọng dụng người tài, nếu làm được như thế sẽ lôi kéo được những bạn trẻ có trình độ, có khả năng tham gia nghiên cứu, phát triển KH&CN, xây dựng được đội ngũ đông đảo các nhà khoa học Việt Nam đủ tài, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, vấn đề này không dễ dàng trong bối cảnh nguồn lực của quốc gia dành cho KH&CN nhìn chung còn hạn chế.
Với nguồn lực hạn hẹp hiện nay của Nhà nước, trước mắt chưa thể có những chính sách mang tính đại trà, mà trước hết sẽ nhằm vào ba đối tượng: các nhà khoa học đầu ngành, các nhà khoa học được giao chủ trì nhiệm vụ của quốc gia, và các nhà khoa học trẻ tài năng.
10/ Mô hình phát triển KH&CN của ta trái ngược với kinh nghiệm từ các cheabol, là những trụ cột chính trong sáng tạo, phát triển công nghệ tại Hàn Quốc. Cụ thể, để có những thương hiệu nổi tiếng toàn cầu hiện nay trong lĩnh vực đóng tàu, bán dẫn, điện tử... như Posco, Hyundai, Samsung, LG... các tập đoàn, DN này đã không ngần ngại đầu tư hơn 70% tổng kinh phí cho KH&CN của Hàn Quốc mỗi năm. Khi bỏ tiền túi ra, các ông chủ tập đoàn, DN sẽ biết cách tiêu làm sao để mang lại hiệu quả cao nhất, hoàn toàn khác với lối tiêu tiền từ ngân sách vốn nặng về thủ tục hành chính và định mức rất xa thực tế như đang tồn tại ở nước ta từ vài chục năm nay. Ngoài ra, thay vì hỗ trợ mạnh cho các tập đoàn kinh tế như cách đây khoảng 10 năm về trước, hiện nay Hàn Quốc ưu tiên hàng đầu cho cộng đồng DN nhỏ và vừa trong ứng dụng công nghệ mới. Ở ta, kinh phí cho KH&CN còn được nhiều địa phương "xẻo" ra cho việc thực hiện các mục đích khác... Hậu quả là nền KH&CN nước nhà đã tụt hậu, càng đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực và thế giới. Mặt khác, quốc gia nào có nền KH&CN càng phát triển thì tỷ lệ đầu tư cho KH&CN của khu vực ngoài nhà nước so với ngân sách nhà nước càng lớn, ví dụ: Ở Châu Âu, Hàn Quốc, Nhật Bản, tỷ lệ này thường là 3:1 đến 4:1; Trung Quốc cũng đã đạt được tỷ lệ 3:1 trong năm 2011. thực trạng nước ta "chưa hình thành nhu cầu tự thân đủ mạnh của các DN trong việc phát huy vai trò của KH&CN". Ngoài ra cần khuyến khích tư nhân thành lập hoặc liên kết với Nhà nước thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm đối với hoạt động nghiên cứu phát triển công nghệ mới, công nghệ cao. Việt Nam cần nghiên cứu ban hành quy định về việc DN trong nước lập quỹ phát triển KH&CN; coi đây là yêu cầu bắt buộc với DN nhà nước và là hoạt động được khuyến khích đối với các DN khác"... Vấn đề đặt ra ở đây là DN Việt Nam đổi mới công nghệ theo hướng nào, lấy nguồn vốn ở đâu trong giai đoạn suy thoái kinh tế chưa có điểm dừng và vai trò của Nhà nước ở đâu?
11/ Cơ sở đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư trang thiết bị, xây dựng cơ sở dữ liệu… làm cho nền khoa học công nghệ chẳn hạn như khoa học biển Việt Nam thiếu và yếu. Tuy có được những ưu ái nhất định từ phía chủ trương, chính sách, song KH&CN biển còn không ít rào cản khi tự nó rất chậm được đổi mới về cơ chế quản lý hoạt động, thiếu chiến lược và chính sách KH&CN riêng nên KH&CN biển chưa thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế biển cũng như đáp ứng yêu cầu bảo đảm chủ qyền biển, đảo.
Mặt khác, kinh tế biển của chúng ta ở xuất phát điểm thấp, chưa phát triển theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa nên thiếu nguồn kinh phí trầm trọng cho công tác đầu tư vào KH&CN. Các sản phẩm được làm từ những chương trình, dự án và kể cả công trình KH&CN cấp nhà nước không phải cái nào cũng là “đơn đặt hàng” từ chính nhu cầu sản xuất, kinh doanh và quản lý nên “thị trường” KH&CN biển ở nước ta phát triển rất chậm, cơ chế tài chính cũng chưa phù hợp với đặc trưng nghề biển, một nghề đòi hỏi xuất đầu tư lớn song lại phải chịu nhiều rủi ro.
Nguồn nhân lực cho vấn đề phát triển KH&CN biển đang là vấn đề lớn khi khi lực lượng mỏng, phân tán, thiếu cán bộ chuyên gia đầu ngành ở những hướng chuyên sâu, mũi nhọn quan trọng. Trong khi đó, việc đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ cán bộ làm KH&CN biển còn nhiều bất cập, cơ sở và quy mô đào tạo nhỏ lẻ và các định hướng, chương trình đào tạo về biển chưa toàn diện, thiếu cập nhật và chưa được tiêu chuẩn hoá.
Bên cạnh đó, Việt Nam còn thiếu một chiến lược tổng quát về khoáng sản năng lượng biển, chưa xây dựng được bản đồ về tiềm năng khoáng sản năng lượng cho toàn vùng biển một cách chính xác. Chiến lược tìm kiếm dầu khí chưa thật sự rõ ràng, còn phụ thuộc nhiều vào các công ty nước ngoài. Nghiên cứu sinh vật, sinh thái vùng biển sâu và đảo xa bờ còn chậm và lúng túng, thậm chí bất lực trước yêu cầu ngăn chặn sự suy thoái nguồn lợi, các hệ sinh thái, môi trường biển…
Thiếu trang thiết bị và điều kiện tài chính khiến nước ta chưa thể tiến hành nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản ngoài biển xa mà chỉ làm được ở những vùng ven bờ, nơi có độ sâu 30 m nước trở lại. khi tiếp cận với các nền khoa học tiên tiến trong hợp tác kinh tế, vấn đề chuyển giao khoa học kỹ thuật, đầu tư thiết bị công nghệ cao để khai thác hiệu quả (trừ một số ngành kinh tế mũi nhọn như dầu khí), còn rất hạn chế. Nhiều ngành kinh tế biển vẫn đang khai thác bằng phương pháp truyền thống hiệu quả thấp là chủ yếu.
Một số lĩnh vực quan trọng để phát triển nền kinh tế biển trong phạm vi thềm lục địa của Việt Nam còn “bỏ ngỏ” và chưa được xem là một dạng tài nguyên như nghiên cứu địa chất công trình đáy biển, địa chất khảo cổ học, nghiên cứu khôi phục lại cổ địa lý, cổ đại dương học, sự tiến hóa của thềm lục địa làm bài học để hướng về tương lai.
Chưa có một công trình nghiên cứu khoa học về chính sách, xã hội biển mang tầm chiến lược, làm “điểm tựa” cho sự phát triển bền vững biển và hải đảo. Đâu đó, cũng đã có những công trình nghiên cứu nhưng vụn vặt, không toàn diện, không đồng bộ.
Chưa có tài liệu quy hoạch, khai thác, sử dụng vùng biển đảo. Công việc quản lý biển đảo lâu nay vẫn chỉ dựa vào Luật Đất đai và một số luật ngành như Thủy sản, Hàng hải…. Như vậy, công cụ pháp lý để quản lý nhà nước trong lĩnh vực này còn rất mờ nhạt.
12/ Trong thời gian trước đây Việt Nam chưa xây dựng ra một hệ thống pháp luật đồng bộ cho KH&CN: Mọi người nói rất nhiều rằng khoa học và công nghệ là then chốt, nền tảng, động lực và quốc sách, nhưng thực sự khoa học và công nghệ vẫn chưa đạt được những thành quả phát triển như mong muốn. Nguyên nhân chủ yếu là do hệ thống luật pháp về khoa học và công nghệ không đồng bộ với hệ thống pháp luật chung của Nhà nước. Việc hoàn thiện toàn bộ hệ thống văn bản pháp lý cho hoạt động khoa học và công nghệ, từ văn bản có vai trò đặc biệt quan trọng. vướng mắc lớn nhất trong thực hiện Nghị định 115 chính là vấn đề tự chủ về tài chính, vì trong suốt nhiều năm qua, hệ thống luật pháp của chúng ta về tài chính, quyền sử dụng đất không được điểu chỉnh sửa đổi cho phù hợp, và các tổ chức KH&CN vẫn không được giao tài sản và quyền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ.

13/ Cơ chế quản lý trước đây đối với các hoạt động KH&CN vẫn nặng tính bao cấp, hành chính và là một trong những rào cản lớn đối với sự phát triển của KH&CN trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Các thủ tục, cơ chế đầu tư cho KH&CN chưa được cải tiến, chưa phù hợp với đặc thù của lĩnh vực. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ KH&CN tăng nhanh về số lượng nhưng chất lượng vẫn còn thấp, nguồn nhân lực trình độ cao có rất ít. Cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu khoa học vẫn còn thiếu và yếu. cơ chế này đã trải qua nhiều giai đoạn đổi mới nhưng cho đến nay vẫn chưa được đổi mới rõ nét về cơ bản, chưa đồng bộ với cơ chế quản lý kinh tế, vẫn còn nặng về hành chính, chậm chuyển sang kinh tế thị trường và chưa phù hợp với những đặc thù của hoạt động sáng tạo KH&CN.

14/ Giáo dục và đào tạo chưa trở thành động lực quan trọng cho phát triển.

Cụ thể, đào tạo nghề có mức tăng cao, một mặt là do nhu cầu lao động có tay nghề và mặt khác do chủ trương thay đổi cơ cấu đào tạo của Nhà nước để khắc phục tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”. Quy mô của bậc cao đẳng, đại học tăng chủ yếu do kết quả xã hội hóa, thành lập mới nhiều trường. Riêng bậc học phổ thông lại tăng thấp hơn do tốc độ tăng dân số đã chậm lại.
Tuy vậy, giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém, là nguyên nhân sâu xa của tình trạng chất lượng nhân lực không đáp ứng được nhu cầu thực tế, chưa trở thành động lực quan trọng nhất cho phát triển.
Sự phát triển của giáo dục và đạo tạo thời gian qua chủ yếu về số lượng. Chương trình học tập nặng, phương pháp học tập vẫn chủ yếu là tiếp thu, cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, mất cân đối giữa lý thuyết và thực hành.
Yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo là cấp thiết, bao gồm nhiều vấn đề từ tư duy, mục tiêu, hệ thống tổ chức, loại hình, nội dung  phương pháp dạy và học đến cơ chế, quản lý, chất lượng đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, nguồn lực và điều kiện thực hiện. Đổi mới giáo dục và đào tạo phải tổng thể từ cấp mầm non, phổ thông, đào tạo nghề, trung cấp chuyên nghiệp đến cao đẳng, đại học và sau đại học.
15/ Chưa thể hiện đầy đủ quyết tâm cao độ của toàn xã hội hướng đến một nền kinh tế tri thức.
Nước ta hiện có đội ngũ trí thức đông đảo với khoảng 2,6 triệu người có trình độ từ đại học trở lên, chưa kể những trí thức ở nước ngoài. Nhưng chúng ta vẫn đứng ở nửa dưới của bảng xếp hạng nền kinh tế tri thức (Knowledge Economy Index – KEI) toàn cầu (Việt Nam là 3,51; Mỹ 9,02; Singapore: 8,44; Malaysia: 6,07...).
“Sự phát triển nói chung liên quan đến mức độ cạnh tranh về công nghệ. Cạnh tranh công nghệ lại phụ thuộc vào giáo dục và nghiên cứu khoa học. Như vậy, trong nền kinh tế tri thức, giáo dục và nghiên cứu khoa học là nhân tố chính”.
Làm thế nào để khoa học – công nghệ trở thành động lực phát triển kinh tế
Mọi công ty đều có trách nhiệm hàng đầu đối với việc phát triển, ứng dụng công nghệ cho đất nước, nhưng nhà nước lại đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển, ứng dụng công nghệ này thông qua việc điều hành nền kinh tế, các quy định, các chính sách thương mại, hỗ trợ trong nghiên cứu, phát triển và thực hiện việc bảo hộ của nhà nước đối với công nghệ.
- Vai trò của chính phủ trong việc tài trợ cho khoa học sẽ là gì?

Gạn lọc ra đầy đủ các lợi ích từ đầu tư công trong khoa học và nghiên cứu & phát triển là nhiệm vụ cốt lõi cho chính phủ.

Tuy những cải cách đang được tiến hành, các khung pháp lý và cơ cấu khuyến khích còn thiếu sót tiếp tục làm hạn chế hợp tác giữa các bên. Các quốc gia tiên tiến đều được đặc trưng bởi sự liên kết chặt chẽ giữa khoa học và đổi mới công nghệ.

Khoa học cũng ngày càng quan trọng nếu các quốc gia muốn hưởng lợi từ kho tri thức của thế giới. Nghiên cứu khoa học cơ bản là nguồn gốc của nhiều công nghệ đang làm biến đổi xã hội, chẳng hạn như Internet và laser, trong khi khoa học đời sống đang góp phần vào tiến bộ trong chăm sóc sức khỏe và công nghệ sinh học với một tốc độ nhanh hơn bao giờ hết. Một số lớn của những khám phá khoa học và phát minh diễn ra một cách tình cờ, đôi khi như là sản phẩm phụ của các nỗ lực nghiên cứu tập trung hơn, nhưng thường là kết quả của sự tò mò khoa học. Những khám phá như vậy, được gán cho là nhờ may mắn, bởi bản chất của chúng, là không thể đoán trước được. Tầm quan trọng của sự may mắn ngụ ý rằng chính phủ không nên đi quá xa trong việc định hướng nghiên cứu khoa học nhằm hướng tới mục tiêu kinh tế, xã hội chính xác. Tuy nhiên, chính phủ có thể đưa ra những chỉ đạo quy mô rộng cho nghiên cứu lâu dài trong lĩnh vực đòi hỏi nhiều hiểu biết hơn. Tuy nhiên việc sử dụng kinh phí nên có tính cạnh tranh,  và các tiêu chí cơ bản phải là sự xuất sắc khoa học và đỉnh cao tri thức.

Việc tài trợ của chính phủ về nghiên cứu phải chú trọng việc tiếp tục cung cấp những hạt mầm của sự đổi mới. Việc rút ngắn chu kỳ các sản phẩm khu vực tư nhân và R & D mang lại  nguy cơ của sự đầu tư không đủ sức vào nghiên cứu khoa học và các công nghệ dài hạn có ứng dụng rộng rãi.
Ngoài ra, thương mại hóa quá nhiều các nghiên cứu tài trợ công được thực hiện trong phòng thí nghiệm
của nhà nước và các trường đại học sẽ làm giảm sự chú ý cần thiết o việc nghiên cứu dài hạn.
projects. Trường hợp nghiên cứu của chính phủ là cần thiết để đáp ứng các mục tiêu công như y tế, năng lượng quốc phòng, chính sách của chính phủ sẽ cần phải thể hiện sự cân bằng giữa việc thúc đẩy cạnh tranh cho ngân sách so với phân bổ kinh phí cụ thể cho dự án riêng.

Nhiều nỗ lực nhằm mục đích tạo ra các "trung tâm xuất sắc", đặc biệt là trong các lĩnh vực mới. Ngoài tác động trực tiếp của
các trung tâm này về phát triển kiến thức và năng lực đổi mới, sự tạo ra các trung tâm nghiên cứu đẳng cấp thế giới đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành các mạng lưới và cụm nghiên cứu. Chúng giúp thiết lập một môi trường hợp tác giữa ngành công nghiệp các các nhà nghiên cứu từ trường đại học và cung cấp một số lượng quan trọng những người có thể mở rộng nghiên cứu thêm và khuếch tán các công nghệ được hình thành. Trung tâm này cũng hoạt động như thỏi nam châm hút lấy những người có tay nghề cao từ khắp nơi trên thế giới.

Nhận thức rõ vấn đề này, những năm qua, nhà nước đã rất quan tâm đến phát triển giáo dục và khoa học-công nghệ với nhiều chủ trương, chính sách và cơ chế khuyến khích, hỗ trợ và thực tế, chúng ta đã đạt được tiến bộ đáng kể.
Trong cái khó, nhiều khi lại xuất hiện cơ hội. Cụ thể, cơ hội tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ của DN, đặc biệt là những DN KH&CN. Theo đó, DN KH&CN được hưởng những ưu đãi cao nhất về thuế, nghĩa là họ được miễn hoàn toàn 4 năm thuế thu nhập DN, giảm 50% thuế trong 9 năm tiếp theo. Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia cũng sẽ ra đời với số vốn nhiều nghìn tỷ đồng. Đây sẽ là kênh hỗ trợ mới giúp DN tham gia vào hoạt động KHCN nhiều hơn. Và thực sự, nếu có chiến lược tốt, DN hoàn toàn có cơ hội tiếp cận nguồn vốn đầu tư từ các quỹ đầu tư mạo hiểm đang xuất hiện ngày càng nhiều ở Việt Nam... Chưa bao giờ khoa học nước nhà lại có cơ hội thuận lợi như bây giờ với hàng loạt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được ban hành về phát triển KH&CN". Để biến những "cơ hội vàng" ấy thành những sản phẩm mang lại hàm lượng giá trị gia tăng cao, hơn lúc nào hết, cộng đồng DN nước ta phải được coi là trung tâm của đổi mới với nhận thức rằng sáng tạo công nghệ có thể thương mại hóa. Hướng đi ấy cũng phù hợp với quan điểm từng bước xây dựng nền kinh tế tri thức của Đảng và Nhà nước ta trong những năm sắp tới. Bên cạnh cần phải có những giải pháp mạnh để phát triển nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao. Chính nguồn nhân lực này sẽ là cái bảo đảm cho chúng ta không chỉ tiếp thu, làm chủ, mà còn vận dụng và phát triển được tri thức khoa học và các công nghệ cao, công nghệ mũi nhọn. Nếu thiếu đội ngũ này, cho dù đất nước có mở cửa, các công ty nước ngoài có thật sự mang công nghệ tiên tiến vào thì chúng ta vẫn không thể làm chủ, nội địa hóa và phát triển được những công nghệ ấy. Kết quả là chúng ta tiếp tục lệ thuộc họ cả về công nghệ và vốn. Ðây là một nguy cơ lớn, đe dọa chiến lược đi tắt đón đầu. Cần thật tâm chú ý đến chất lượng thật sự của lao động khoa học, hạn chế tính hình thức, khoa trương, cơ hội trong các hoạt động này, khắc phục tình trạng phân tán, lãng phí các nguồn lực, nâng cao năng lực cạnh tranh và hoạt động thực tiễn của các cơ sở đào tạo, nghiên cứu.
-         Chính sách của chính phủ đang điều chỉnh để hướng đến đổi mới trong nền kinh tế

Chính phủ đang từng bước điều chỉnh chính sách của mình để nâng tầm quan trọng của khoa học, công nghệ và đổi mới, đã thực hiện các sáng kiến quy mô lớn để cải cách khoa học và công nghệ,và đổi mới.

Tại một số nước tiên tiến, hỗ trợ cho các nghiên cứu cơ bản đã tăng hơn 10% từ ngân sách. Những nỗ lực này thường nhằm mục đích tăng cường sự đóng góp của khoa học để tăng trưởng kinh tế và cũng để giải quyết những thách thức của môi trường.

Đất nước đang tiến hành cải cách các trường đại học với một quan điểm tự chủ lớn hơn, nguồn tài trợ dựa trên cạnh tranh và hiệu quả nhiều hơn và việc thương mại hóa các kết quả nghiên cứu công. Các qui luật chi phối các mối quan hệ khoa học công nghệ cũng đang trải qua những cải cách. Nhiều sự chú ý cũng được dành cho các khu vực tăng trưởng mới như công nghệ sinh học và chương trình xúc tiến thương mại của các công ty mới khởi sự, ví dụ thông qua hỗ trợ từ thị trường vốn mạo hiểmviệc cải cách quy định. Vai trò của mạng lưới ngày càng được công nhận: kinh phí cho R & D được liên kết chặt chẽ hơn với việc cộng tác trong nhóm nghiên cứu, tương tác khoa học-công nghiệp đang là mục tiêu quan trọng  của chính sách đồng thời nhấn mạnh sự hình thành của các cụm. Có việc chú ý nhiều hơn đến cơ chế khuyến khích đối với các nhà nghiên cứu cũng như các chính sách để tăng tính động của nhân sự bên trong hệ thống khoa học cũng như giữa khoa học và công nghiệp. Sự dịch chuyển mang tính quốc tế của các các nhân sự có tay nghề cao và các lo ngại về chảy máu chất xám cũng là chủ đề chính cho nước ta.

Khoa học kỹ thuật là một lĩnh vực cần được quan tâm thường xuyên. Chính phủ cần làm việc với các doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu và các đối tác khác để thiết kế và thực hiện chính sách, vì việc gắn bó tích cực này giúp thúc đẩy các bên liên quan giữ vững được thành quả lâu dài từ những thay đổi tốt hơn đã đem lại.

Rất khó để đánh giá xem liệu những thay đổi đang được thực hiện hiện nay sẽ có đủ hiệu quả hay chưa. Những thực hành tốt nhất sẽ tiếp tục phát triển, song song với việc cần phải xem xét lại chính sách. Chính phủ gần đây đã cam kết cải cách và điều này được xem chỉ là một bước đầu tiên nhằm hướng tới việc đổi mới hệ thống hiệu quả hơn. Vẫn còn nhiều phạm vi đòi hỏi phải có sự tiến bộ hơn nữa và vẫn cần học hỏi các phương pháp tiếp cận thành công đối với với tiến bộ khoa học, đổi mới và tăng trưởng kinh tế.

Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ 2011-2020 xác định rõ quan điểm, mục tiêu, định hướng, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu để phát triển khoa học và công nghệ. Chiến lược nhấn mạnh yêu cầu phát triển đồng bộ khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, qua đó thực sự trở thành động lực phát triển. Chiến lược phát triển khoa học công nghệ giai đoạn 2011 - 2020 sẽ phải thay đổi cách quản lý tài chính đối với cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia nghiên cứu khoa học; đối với công tác nghiên cứu và triển khai các đề tài khoa học theo hướng quản lý đề tài khoa học theo các sản phẩm đầu ra.

- Việc nâng đỡ của Chính Phủ đối với các công nghệ mang tính thương mại cần phải có tính chọn lọc
Trong một số trường hợp, chính phủ đưa ra một số lý do thuyết phục để trực tiếp tăng cường sự phát triển áp dụng công nghệ cho một số lĩnh vực công chịu phụ thuộc nhiều vào các công nghệ tiên tiến như đóng tàu, bảo đảm an ninh quốc gia và bảo vệ môi trường. Các dạng sản phẩm công nghệ cao khác như khung máy bay và động cơ máy bay, vệ tinh, bán dẫn, công nghệ sinh học, năng lượng hạt nhân, các thiết bị hóa sinh và dược phẩm thì vẫn hảy còn khá và rất khiêm tốn trong các nghiên cứu, phát triển của Việt Nam. Công nghiệp phụ trợ của Việt Nam đến nay vẫn chưa tạo ra dấu ấn rõ rệt.
Nhà nước đã quan tâm xây dựng các khu công nghệ cao mang tính tiền đề để hình thành các kỹ nghệ mới hay chuyển đổi các công nghệ hiện có để tạo ra năng suất cao cho xã hội nói chung, nhưng việc phát triển vẫn còn chưa được khu vực đầu tư tư nhân tiếp nhận do lo sợ rủi ro. Việc xây dựng các trung tâm mầm này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy hàng loạt các loại hình hoạt động công nghệ của các công ty trong gần và trung hạn nhưng vẫn chưa có khả năng mang lại lợi nhuận riêng hấp dẫn. Các ví dụ về những loại công nghệ này như việc phát triển các phương pháp công nghệ, biên soạn và đánh giá các dữ liệu kỹ thuật, các công cụ đo lường và tạo ra sự tinh tế cao hơn cho các quá trình sản xuất.
Việc xác định các công nghệ đáp ứng được các tiêu chí này là việc làm khó khăn và đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng thời của hai khu vực công và tư.
Khái niệm về vai trò của nhà nước trong hỗ trợ việc phát triển các công nghệ mang tính thương mại có thể gây ra nhiều tranh cải. Các công ty được thúc đẩy bởi các lực thị trường và được đánh giá theo thành tích của nó trong việc thỏa mãn nhu cầu thị trường nên sẽ dễ được chấp nhận hơn so với việc chính phủ đầu tư vào các công nghệ mới với các mức thưởng phạt to lớn. Không bị chi phối bởi các lực lượng thị trường và việc đánh giá bình phẩm, việc hỗ trợ của nhà nước cho các rủi ro công nghệ mang tính thương mại thường bị chi phối bởi các cân nhắc mang tính chính trị nhiều hơn là kinh tế.
Để duy trì sự nâng đỡ công đối với việc phát triển công nghệ, chính phủ cần phải phát triển các tiêu chí và các cơ chế cho việc đánh giá, phản hồi và các học chế để từ đó có thể phân định rõ và có hiểu biết tốt hơn về các thành công cũng như thất bại. Chính phủ phải được chuẩn bị đầy đủ để loại bỏ các chương trình không hoạt động tốt thực hiện tái phân bổ nguồn lực cho các chương trình nào tỏ ra có hiệu quả. Nỗ lực Nghiên Cứu và Phát Triển của chính phủ cũng nên tránh cạnh tranh với các công ty thương mại, sau đó chính phủ có thể làm việc hiệu quả hơn với các lực lượng thị trường khu vực tư nhân để tận dụng sức mạnh quốc gia về khoa học, công nghệ nhằm nâng cao năng suất lẫn tăng trưởng kinh tế.
-         Các trách nhiệm công và tư nên mang tính đồng bộ trong các lĩnh vực công nghệ dân sự
Sự phức tạp mang tính hàn lâm không tạo thuận lợi cho việc tiến hành một phân tích so sánh về trách nhiệm công tư trong công nghệ dân sự. Nhưng giúp phân tích các vai trò của các tổ chức công và tư trong một số lĩnh vực công nghệ. Các phân tích này chỉ hướng tới một số cách thức mà trong đó chính phủ có thể đóng vai trò xây dựng trong việc phát triển và phổ biến công nghệ.
-         Công Nghệ Thông Tin
15 năm trở lại đây, có thể coi là thời kỳ tăng trưởng của thị trường viễn thông- tin học. Kỹ sư viễn thông với công việc cụ thể như thiết kế mạng, lắp ráp thiết bị, bảo hành bảo trì, quản trị mạng...trở nên "hot" và sáng giá hơn so với nhiều nghề khác.
Các thiết bị di động thông minh ngày càng trở nên phổ biến thì nội dung trao đổi trên mạng di động (công nghệ phần mềm) mới là yếu tố gây ra sự bùng nổ các loại hình dịch vụ kinh doanh khác nhau như: Truyền hình di động, game di động, thương mại điện tử, thanh toán di động...
Như vậy nhu cầu nguồn nhân lực viễn thông đang có sự thay đổi, chuyển từ dịch vụ cung cấp thiết bị viễn thông phần cứng sang dịch vụ mới- cung ứng phần mềm đa phương tiện cho khách hàng sử dụng.
Khi dữ liệu được lưu trữ và trao đổi trên mạng ngày càng lớn, thì nhu cầu bảo mật thông tin trên mạng cũng ngày càng cao, tất yếu có một ngành mới: Sự ra đời của an toàn thông tin trên mạng.
Bức tranh đào tạo nghề Công Nghệ Thông Tin và Truyền Thông (ICT) đang thay đổi:
- Xã hội kết nối và điện toán đám mây- xu thế công nghệ tương lai
- Điện toán đám mây trong xã hội kết nối và bài toán nguồn nhân lực ICT.
Sự tiến bộ nhanh chóng hướng tới một môi trường phát triển hài hòa cho quốc gia của dịch vụ thông tin có liên quan đến nhau các năng lực sẽ mang lại giá trị cho đất nước. Một tập hợp hợp lý các dịch vụ công và tư khó có thể xuất hiện nếu chỉ xuất phát từ các hành động của các lực lượng thị trường. Tuy nhiên, vai trò thích hợp của chính phủ là trở thành một đối tác tham gia với khu vực tư nhân thực thi chức năng là cơ quan quản lý của mình với sự kiềm chế thỏa đáng.
Hiện nay, khoa học và công nghệ đang có vai trò to lớn trong việc hình thành nền “kinh tế tri thức” và “xã hội thông tin” , phát triển hàm lượng trí tuệ cao trong sản xuất, dịch vụ và quản lý ở tất cả các quốc gia. Vì vậy, đầu tư cho khoa học và công nghệ là đầu tư cơ bản để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, là loại đầu tư ngắn nhất và tiết kiệm nhất để hiện đại hóa nền sản xuất xã hội và hiện đại hóa dân tộc. Cuộc chạy đua phát triển kinh tế - xã hội trên thế giới hiện nay thực chất là cuộc chạy đua về khoa học và công nghệ, chạy đua nâng cao chất lượng và hiệu quả lao động trên cơ sở hiện đại hóa nguồn nhân lực. Hiện nay khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao các yếu tố năng suất, chất lượng, hiệu qủa, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
-         Công nghệ y sinh học

Công nghệ y sinh học mới thường xuất phát từ nỗ lực chung của khu vực công và tư.
Các phòng thí nghiệm cho nghiên cứu, của chính phủ và khu vực kỹ nghệ đều liên quan đến sự phát triển của nhiều loại công nghệ mới, và những ý tưởng cũng như những người làm công tác dịch chuyển qua lại một cách nhanh chóng trong tất cả ba loại hình tổ chức này. Các nỗ lực kiểm soát chi phí và điều chỉnh cho chăm sóc sức khỏe cần được thiết kế để khuyến khích việc thử nghiệm và khám phá công nghệ bảo đãm liên tục.
Một số các kỳ vọng của chúng ta trong việc cải thiện các nghiên cứu y tế và chăm sóc y tế của Việt Nam trong thời gian đến có thể kể ra như sau:
-         Các vắc xin cải tiến VLP (Các hạt giống Virus) và các tá dược mới
-         Tế bào đuôi gai cho liệu pháp vacxin ung thư
-         Các tế bào gốc
-         Kháng thể đơn dòng (mAb)
-         Chỉ dấu sinh học (Biomarkers)
Ngoài ra cần tiến hành điều phối các kết quả nghiên cứu và phát triển (như là các nguyên mẫu chẩn đoán và điều trị) với các công ty dược phẩm để thúc đẩy sự phát triển của ngành dược phẩm sinh học TPHCM và thực hành quyền sở hữu trí tuệ (IP) đối với Nghiên Cứu và Phát Triển dựa trên tri thức và phát triển sản phẩm, các cải tiến theo nhu cầu để sản xuất các loại thuốc thiết yếu (như là các loại thuốc sinh học) dễ tiếp cận đối với phần đông dân số VN.
Y học cổ truyền có một vai trò lớn trong nước, nhưng chiến lược thích hợp để bảo vệ y học cổ truyền vẫn còn chưa rõ nét. Một dự án quan trọng cho một phòng thí nghiệm dược phẩm mới chuyên về bào chế các loại thuốc thảo dược đang được tiến hành tại TP HCM, nhưng làm thế nào để chuyển các kiến thức thảo dược thành các sản phẩm, và làm thế nào để sử dụng bảo vệ bằng sáng chế cho các loại thuốc thảo dược-nếu có–thì rõ ràng đây là một lĩnh vực cần hỗ trợ.
Mặt khác thế mạnh củng như tiềm năng của nền kinh tế Việt Nam vẩn là nông nghiệp. Nếu ta lấy ngành công nghệ sinh học làm nền tảng, và bắt đầu bằng công nghệ sinh học phục vụ cho nông nghiệp như:
-         Lại tạo ra giống cây trồng vật nuôi có thể thích nghi với sự biến đổi khí hậu tới đây tại Việt Nam. Cải tạo chất lượng cây, con nhầm có thể chống lại nhưng vi khuẩn hay sâu bọ gây hại mà không cần đến thuốc trừ sâu, giảm bớt và tiến đến loại bỏ sử dụng nhửng hóa chất có thành phần độc hại trong sản xuất nông nghiệp.
-         Thông qua công nghệ sinh học người ta có thể cải tạo được môi trường thiên nhiên như đất, nước, không khí, đồng thời có thể tạo ra phân bón hửu cơ, nhửng thực phẩm từ cây, con không sử dụng các thức ăn có sử dụng các hóa chất độc hại nhầm bảo vệ được sức khỏe cho con người. Đây là nhửng sản phẩm có chất lượng và giá trị kinh tế cao hiện nay.
-         Thông qua công nghệ sinh học chúng ta có thể chế biến các phụ phẩm, phế phẩm thành nhửng sản phẩm mới như bao bì thay thế cho loại chất dẻo từ ngành hóa dầu, năng lượng sinh học v.v...
-         Những bước phát triển tiếp theo đó là công nghệ sinh học đi vào lảnh vực y- dược, ngành mỷ phẩm. và xa hơn nửa đó là qua kỷ thuật biến đổi gen sẻ tạo nên nhưng loài cây, con mới, nhửng sinh vật mới, nhửng sản phẩm mới. hướng nghiên cứu và phát triển của ngành sinh học đả là ngành mủi nhọn của thời đại hiện nay và tương lai…
Thì khi ấy chúng ta sẽ không chỉ có được một nền nông nghiệp hiện đại cho nước nhà mà còn giải quyết được vấn đề bảo vệ môi trường, góp phần to lớn cho bài toán nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Như vậy con đường công nghiệp hoá của nước ta sẻ ít phải trả giá về môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội hơn. Sự tăng trưởng kinh tế theo hướng GDP xanh sẽ hiện thực hơn.
-         Các hệ thống công nghiệp
Chúng ta thử tìm hiểu xem dịch vụ được cung cấp và hàng hóa được sản xuất, cung cấp, sử dụng xử lý có ảnh hưởng như thế nào đến môi trường. Một hệ sinh thái của ngành công nghiệp được đặc trưng bởi toàn bộ hệ thống sản xuất tiêu thụ là một khái niệm có thể được sử dụng để nâng cao chất lượng môi trường. Những tiến bộ trong công nghệ, thường được áp dụng bởi các công ty tư nhân, cho thấy các cơ hội chính cho sự cải tiến ở bên trong các hệ thống tích hợp này. Ngoài ra còn có cơ hội để cho xã hội trở nên ít phụ thuộc vào tài nguyên cũng như phát triển khai thác các vật liệu, các quy trình và các hệ thống an toàn hơn về mặt môi trường khi sử dụng các công nghệ gây nhiều nhạy cảm với môi trường. Quyết định của công ty và sự lựa chọn cá nhân của người tiêu dùng yếu tố quyết định quan trọng đến chất lượng môi trường. Thế kỷ 21 đưa ra một bối cảnh công nghiệp bị chi phối bởi các mạng lưới chiến lược.
Đồng thời có sự xuất hiện việc thu hút kỹ năng và kiến thức về khoa học công nghệ, sản phẩm, dịch vụ và hệ thống kinh doanh với nhau vào “các mạng lưới đổi mới”'. Các thành viên chính trong các mạng lưới này bao gồm các công ty, viện nghiên cứu, viện đào tạo và tổ chức kiến thức chuyên sâu như các trường đại học và bệnh viện. Mạng lưới đổi mới liên tục thay đổi khi các thành viên chính của nó đưa ra các quyết định nên mở rộng hoặc giảm bớt sự tiếp cận vào các mạng lưới, nên mở cửa cho các thành viên mới hoặc “đóng cửa”. Nhưng đáng kể nhất là các mạng lưới đổi mới này vượt ra khỏi biên giới của quốc gia. Trong bối cảnh ấy, các chiến lược muốn đạt được và duy trì sự tiếp cận nguồn nhân lực cho các công nghệ chủ chốt theo nhu cầu toàn cầu cần phải mang tính hợp tác hơn là cạnh tranh.
-         Bối cảnh quốc tế về đổi mới đầu tư vào Nghiên Cứu và Phát Triển cần được cý nhiều hơn
Chính sách gây ảnh hưởng đến sự phát triển áp dụng công nghệ phải thể hiện hai xu hướng củng cố lẫn nhau nhằm xây dựng mạng lưới toàn cầu của Nghiên Cứu và Phát Triển, sản xuất và tiếp thịmở rộng thương mại quốc tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài, các liên minh của công ty hội tụ được khả năng công nghệ của các nước công nghiệp.

Đã có sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và kỹ thuật giữa các quốc gia đang phát triển, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng này đang tạo ra cả cơ hội lẫn thách thức đối với cả hai khu vực tư và công. Nó sẽ mở ra cánh cửa cho các thị trường mới, công nghệ mới, và các nguồn mới của sự cạnh tranh, làm thúc đẩy sự sáng tạo, năng suất của các công ty người lao động Việt Nam. Nhiều trong số các thị trường phát triển nhanh nhất hiện nay là ở các nước khác, việc gia tăng sự cởi mở trong thương mại tạo cho các công ty cơ hội để cạnh tranh trong các thị trường này. Phụ thuộc lẫn nhau ở cấp độ quốc tế cũng giúp phổ biến các công nghệ và thực tiễn quản lý mới. Tất cả những yếu tố này có thể góp phần vào việc gia tăng năng suất, tạo ra sự thịnh vượng, sự tăng trưởng việc làm và các tiêu chuẩn sống cao hơn cho người dân Việt Nam. Đồng thời, sự tăng cường phụ thuộc lẫn nhau đã đẩy nhanh tốc độ chuyễn dịch cơ cấu, tổ chức trong nền kinh tế Việt Nam, làm tăng nhu cầu đối với các cá nhân, tổ chức và cộng đồng để thích ứng với hoàn cảnh thay đổi. Những ai có thể đáp ứng được nhu cầu mới có thể gặt hái lợi ích đáng kể, nhưng với những người không thể thích ứng một cách nhanh chóng và hiệu quả có thể gặp phải khó khăn kinh tế nghiêm trọng. Sự mất kiểm soát trên thị trường trong nước được liên kết với sự phụ thuộc quốc tế lẫn nhau cũng rất có khả năng làm phức tạp thêm nhiệm vụ thúc đẩy các lợi ích cho quốc gia đối với các mặt kinh tế, chính trị và quân sự. Ngoài ra, sự thay đổi trong cán cân sức mạnh kinh tế và công nghệ giữa các quốc gia có thể làm gia tăng mối lo ngại về tiếp cận thị trường và các tài sản công nghệ. Sản phẩm công nghệ cao và việc phát triển chúng đòi hỏi một sự chú ý đặc biệt dưới  ánh sáng về tầm quan trọng của chúng đối với nền kinh tế quốc gia và bởi vì các ngành công nghiệp này là mục tiêu của các chính sách công nghiệp cho nhiều đối tượng tham gia trong hệ thống thương mại đa phương.
Một thách thức cụ thể đã được tăng cường xuất phát từ việc phụ thuộc quốc tế có liên quan đến việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Ngày nay, khả năng cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp được xác định bởi khả năng của họ trong phát triển, thương mại hóa, và quan trọng nhất là thu được các lợi ích kinh tế từ sự đổi mới. Quyền sở hữu trí tuệ, chẳng hạn như quyền sáng chế và bản quyền, cho phép các công ty bảo vệ các khoản đầu tư của họ trong việc Đổi Mới và Nghiên Cứu và Phát Triển. Nhưng với sự đổi mới đang lan tỏa một cách nhanh chóng trên toàn cầu thì việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cần phải được mở rộng ra quy mô quốc tế nhằm duy trì các ưu đãi hiện hành cho các công ty trong việc Đổi Mới và đầu tư vào Nghiên Cứu và Phát Triển.
Phát triển sự phụ thuộc quốc tế lẫn nhau không phải không có cái giá của nó, nhưng dựa trên quan điểm cân bằng thì xu hướng này là một lực lượng tích cực cho cả Việt Nam cho phần còn lại của thế giới. Hơn nữa, không thể đảo ngược hoặc bị chậm lại một cách đáng kể mà không có chi phí không thể chấp nhận đối với người dân và phần còn lại của thế giới. Câu hỏi quan trọng ở đây là làm thế nào để đối phó với xu hướng này hiệu quả hơn để chúng ta có thể tối đa hóa các lợi ích liên quan, giảm đi các chi phí gắn kết và tìm cách để phân phối cả lợi ích lẫn chi phí trong quá trình toàn cầu hóa một cách công bằng và hài hoà hơn ở tại sân nhà.

Một trường hợp điển hình sự tham gia ngày càng tăng của các công ty, các nhà nghiên cứu và sinh viên nước ngoài ở Việt Nam trong Nghiên Cứu và Phát Triển. Thông qua các liên minh xuyên quốc gia và đầu tư trực tiếp vào các công ty Việt Nam, các công ty nước ngoài đang ngày càng tham gia nhiều vào các cơ sở Nghiên Cứu và Phát Triển công nghiệp của Việt Nam. Tương tự như vậy, sinh viên nước ngoài, các nhà nghiên cứu và các công ty đang ngày càng tham gia nhiều hơn vào các chương trình Nghiên Cứu và Phát Triển được tài trợ bởi nhà nước và được thực hiện trong các trường đại học nghiên cứu của Việt Nam các phòng thí nghiệm ở các địa phương.
Một số các nhà làm chính sách và các nhà lãnh đạo doanh nghiệp cũng nên bắt đầu từng bước vạch ra biện pháp đối phó với việc chuyển giao công nghệ được phát triển tại Việt Nam sang các nước khác và về một sự mất mát tương ứng các cơ hội cho công dân Việt Nam trong tương lai gần. Mối quan tâm được tăng cường khi các công nghệ có ý nghĩa an ninh quốc gia tiềm năng hoặc khi các tổ chức nước ngoài liên quan đến có nguồn gốc từ các nước từ chối việc tiếp cận đối ứng với công dân Việt trên các thị trường và các tài sản Nghiên Cứu và Phát Triển trong nước.

Hiện đang tồn tại một sự căng thẳng gia tăng giữa ý tưởng về phụ thuộc, sự cởi mở lẫn nhau ngày càng tăng trên quy mô quốc tế với những vấn đề chưa được giải quyết hiện tại trong cạnh tranh công nghệ cao. Phương pháp thường được dùng là đi đến "luật chơi" cùng có lợi cho các tập đoàn xuyên quốc gia, đất nước của họ và nước sở tại. Các quy tắc bao gồm một loạt các chính sách, bao gồm cả hạn chế chống độc quyền, mua sắm chính phủ, quyền sở hữu trí tuệ, mục tiêu công nghiệp và thực hành trợ cấp, đầu tư trực tiếp nước ngoài, nội dung chính quyền đô thị và xây dựng tiêu chuẩn quốc tế. Trong khi tiếp tục để tìm các giải pháp cho các vấn đề chưa được giải quyết, chính phủ cần tiếp tục nỗ lực để mở rộng thị trường nước ngoài đối với thương mại và đầu tư của Việt Nam thông qua thương lượng trong các diễn đàn song phương và đa phương.
Khả năng của đất nước trong việc nắm bắt những lợi ích của các doanh nghiệp kỹ thuật mang tính quốc tế sẽ phụ thuộc chủ yếu vào sự thành công của các tập đoàn tư nhân nước ngoài hoạt động trong lãnh thổ Việt Nam thông qua việc nắm bắt các cơ hội đem lại trên cơ sở công nghệ toàn cầu đang nổi lên. Những nhà hoạch định chính sách có thể gây ảnh hưởng đến sự thành công này bằng cách công nhận sự độc lập lẫn nhau của các chính sách trong nước và quốc tế nào có ảnh hưởng đến phát triển và áp dụng công nghệ.
-         Cần sự cảnh giác thường xuyên để bảo đãm tính cạnh tranh công nghệ của Việt Nam
Cho đến nay, nhiều công ty Việt Nam trước kia bị cho là kém hiệu quả hơn so với đối thủ cạnh tranh nước ngoài đang khai thác tại đầu ra của Nghiên Cứu và Phát Triển đang được nhường chỗ cho một cái nhìn lạc quan hơn. Thông qua những nỗ lực tập thể của họ, các công ty Việt Nam hiện nay từng bước tỏ ra có hiệu quả hơn trong việc đáp ứng với sự cạnh tranh từ nước ngoài. Nhìn chung, nền kinh tế Việt Nam đã phát hiện được những khiếm khuyết cơ bản của mình và bước đầu đã tăng cường được tính hiệu quả và tính cạnh tranh trên thế giới. Trong nhiều lĩnh vực công nghệ, khu vực công và tư đã bước đầu làm việc với nhau hiệu quả để kết hợp các năng lực bổ sung cho nhau.

Sự hợp tác tiếp tục giữa khu vực công và tư sẽ rất cần thiết để đáp ứng các mục tiêu về hai mặt công nghiệp công ích nói chung. Các công nghệ mới những mối quan tâm mới sẽ tiếp tục xuất hiện. Cân bằng các lợi ích và những rủi ro từ sự thay đổi sẽ yêu cầu sự giao tiếp, lập kế hoạch hợp tác giữa chính phủ với doanh nghiệp.
Kết luận:
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, mặc dù điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, nhưng dưới sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự nỗ lực, tâm huyết của đội ngũ các nhà khoa học, sự cố gắng của các doanh nghiệp và nhân dân, khoa học và công nghệ nước ta đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Khoa học xã hội và nhân văn đã cung cấp luận cứ cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp phần xây dựng hệ thống quan điểm phát triển đất nước; khẳng định lịch sử hình thành và phát triển dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, bảo tồn các giá trị và bản sắc văn hóa Việt Nam.
Khoa học tự nhiên đã có bước phát triển trong nghiên cứu cơ bản, tạo cơ sở cho việc hình thành một số lĩnh vực khoa học và công nghệ đa ngành mới, góp phần nâng cao trình độ và năng lực của khoa học cơ bản.
Khoa học kỹ thuật và công nghệ đã đóng góp tích cực vào việc nâng cao năng suất, chất lượng hàng hóa và dịch vụ; cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế; một số lĩnh vực đã tiếp cận trình độ tiên tiến khu vực và thế giới.
Tiềm lực khoa học và công nghệ được nâng lên. Quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ từng bước được đổi mới. Hệ thống pháp luật về khoa học và công nghệ được chú trọng hoàn thiện.
Thị trường khoa học và công nghệ đã được hình thành và bước đầu phát huy tác dụng. Hợp tác quốc tế được đẩy mạnh và chủ động hơn trong một số lĩnh vực, góp phần nâng cao năng lực, trình độ khoa học và công nghệ trong nước.
Tuy nhiên, hoạt động khoa học và công nghệ nhìn chung còn trầm lắng, chưa thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Việc huy động nguồn lực của xã hội vào hoạt động khoa học và công nghệ chưa được chú trọng; đầu tư cho khoa học và công nghệ còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao.
Việc đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ cán bộ khoa học và công nghệ còn nhiều bất cập. Cơ chế quản lý hoạt động khoa học và công nghệ chậm được đổi mới. Công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển khoa học công nghệ chưa gắn với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; cơ chế tài chính còn chưa hợp lý cho đến trước đây chỉ một năm.
Thị trường khoa học và công nghệ phát triển chậm, chưa gắn kết chặt chẽ kết quả nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo với nhu cầu sản xuất, kinh doanh và quản lý. Hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ còn thiếu định hướng chiến lược, hiệu quả thấp.
Để giải quyết cơ bản các vướng mắt nêu trên, Nghị quyết Trung ương 6 về phát triển khoa học và công nghệ thì Nhiệm Vụ và Giải Pháp từ đây đến 2020 đã đưa ra các giải pháp đi vào trọng điểm:
1- Đổi mới tư duy, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ
2- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa học và công nghệ
- Đổi mới hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ
- Đổi mới cơ chế hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ
- Đổi mới quy hoạch phát triển nguồn nhân lực, cơ chế, chính sách sử dụng và trọng dụng cán bộ khoa học và công nghệ
- Kiện toàn, nâng cao năng lực bộ máy quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ
- Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, tư vấn, phản biện của các nhà khoa học.
3- Triển khai các định hướng nhiệm vụ khoa học và công nghệ chủ yếu
- Tăng cường nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu phục vụ hoạch định đường lối, chính sách phát triển đất nước, bảo đảm quốc phòng, an ninh và mục đích công cộng
- Ưu tiên phát triển một số công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ liên ngành
- Đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học và công nghệ trong các ngành, lĩnh vực, vùng, địa phương
4- Phát huy và tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia
5- Phát triển thị trường khoa học và công nghệ
6- Hợp tác và hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ
Mặt khác cần lưu ý là ở nước ta, trong khi hoạt động truyền thông nói chung đã được chú trọng và phát triển mạnh (đặc biệt về bóng đá, sức khỏe, tình cảm, văn hóa), thì truyền thông KHCN trong cả nước nhìn chung chưa đạt được nhiều kết quả như mong muốn. Số lượng bài báo, chương trình truyền hình, phát thanh về KHCN chưa nhiều, các chuyên mục truyền thông cho KHCN chưa phong phú. Công tác tuyên truyền KHCN chưa đồng bộ, rộng khắp, chưa có trọng tâm, trọng điểm, còn thiếu cơ chế, kế hoạch phối hợp giữa các đơn vị thuộc Bộ KHCN, giữa Bộ với các Sở KHCN, các tổ chức KHCN và các cơ quan thông tin đại chúng. Đó chính một trong những hạn chế làm cho KHCN chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển kinh tế- xã hội.
Nhiệm vụ to lớn của công tác truyền thông KHCN đã được khẳng định trong các văn kiện quan trọng như Chiến lược phát triển KHCN giai đoạn 2011 - 2020; Nghị quyết Trung ương 6 về phát triển KHCN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; Luật KHCN sửa đổi.
Việc ra mắt Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia vào ngày 8 tháng 1 năm 2015 với giá trị 1.000 tỉ đồng thể hiện quyết tâm của Chính phủ nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng lấy khoa học công nghệ và hoạt động đổi mới sáng tạo làm nền tảng, tạo động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước. Thủ tướng chỉ ra rằng trong thời đại toàn cầu hóa, có sự cạnh tranh quyết liệt để phát triển; quốc gia nào ứng dụng được nhanh, được tốt khoa học - công nghệ mới, quốc gia đó sẽ phát triển nhanh và bền vững. Việc ra đời và đi vào hoạt động của Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia là một giải pháp góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển khoa học - công nghệ của đất nước. Thủ tướng yêu cầu Bộ KH-CN chỉ đạo, thực hiện thật tốt các chức năng, nhiệm vụ được giao của Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ với mục tiêu hoạt động quỹ ngày càng hiệu quả, đóng góp tích cực hoạt động đổi mới công nghệ của doanh nghiệp, của đất nước cũng như nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Hy vọng trong thời gian tới, công tác truyền thông sẽ đưa KHCN thấm vào xã hội một cách tự nhiên, tạo ra sự thích thú, phấn khích và hình ảnh gần gũi của khoa học, đưa KHCN gần với người dân.


Tài Liệu Tham Khảo

Nghị quyết Trung ương 6 về phát triển khoa học và công nghệ thì Nhiệm Vụ và Giải Pháp đến 2020

Cấu trúc Kinh tế và Rủi Ro thời Hội Nhập, TsKH Trần Quang Thắng, hội thảo phía Nam tại trường Đại học Nguyễn tất Thành, tháng 1 năm 2015.

TBT, hai mặt của một vấn đề, TsKH Trần Quang Thắng, hội thảo phía Nam tại trường Đại học Nguyễn tất Thành., tháng 12, năm 2014

Tương Lai Của Khoa Học Công Nghệ Đối Với Phát Triển Kinh Tế Việt Nam Trong Tương Lai Sẽ Ra Sao? TsKH Trần Quang Thắng, Sách: “Điển nhấn hội nhập”, công ty cổ phần tri thức doanh nghiệp quốc tế.
Lundvall .B-A. (1992). « National systems of innovation: towards a theory of innovation and interactive learning », Londres, printer.

Metcalfe, J. (1994). « Evolutionary economics and technology policy », The Economic Journal, n°104: p 931-944.

Mezouaghi. M. (2002) « Les approches du système national d’innovation : les économies semi-industrialisées », Revue Tiers Monde, n169 : 189-212.

Văn Minh

No comments:

Post a Comment