Saturday, October 4, 2014

Đừng để những Tập đoàn Kinh tế Nhà nước như "quả đấm thép" đấm vào Kinh tế thị trường định hướng...

Diệp Văn Sơn - Chuyên viên cao cấp, nguyên Phó vụ trưởng Bộ Nội vụ, Chi hội trưởng Chi hội quản lý hành chính, Hội Tư vấn Khoa học Công nghệ và Quản lý TPHCM  HASCON,              Trong khi sự kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước chưa được xử lý một cách triệt để như yếu kém trong quản lý, trách nhiệm không rõ ràng, những vấn đề sở hữu … mà đua nhau chuyển thành Tập đòan, với quy mô lớn hơn quyền hạn, phạm vi họat động lớn hơn so với Tổng công ty 91, trong chừng mực nào đó đã từng có những cảnh báo về một nguy cơ tiềm ẩn…

Chúng ta đều biết, thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước trong những năm qua là đưa Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa IX của Đảng vào cuộc sống. Ý muốn xây dựng những tập đoàn kinh tế mạnh ở Việt Nam đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế, thực hiện tốt mục tiêu bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Tập đoàn kinh tế nhà nước được kỳ vọng như “quả đấm thép”.
Thế nhưng,trong vòng năm năm, kể từ ngày đề án thí điểm tập đoàn kinh tế nhà nước đầu tiên được Thủ tướng phê duyệt, Việt Nam đã nhanh chóng cho ra đời 12 tập đoàn, hiện nay còn 8. Các doanh nghiệp này đang nắm lượng tài sản khổng lồ của quốc gia và đóng vai trò nòng cốt trong việc thực hiện một số chính sách lớn về phát triển.
Trong khi sự kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước chưa được xử lý một cách triệt để như yếu kém trong quản lý, trách nhiệm không rõ ràng, những vấn đề sở hữu … mà đua nhau chuyển thành Tập đòan, với quy mô lớn hơn quyền hạn, phạm vi họat động lớn hơn so với Tổng công ty 91, trong chừng mực nào đó đã từng có những cảnh báo về một nguy cơ tiềm ẩn…
Cho đến nay chưa có một văn bản pháp luật nào của Việt Nam điều chỉnh một cách đầy đủ và tập trung về mô hình tập đoàn kinh tế. Có thể tìm thấy một số quy định về khái niệm tập đoàn và các quy định liên quan đến cách thức tổ chức quản lý tập đoàn kinh tế qua mô hình công ty mẹ – công ty con.

1. Tổ chức và hoạt động của Tập đoàn còn nhiều bất cập 
1.1. Cơ sở pháp lý thành lập tập đoàn mang dấu ấn nền kinh tế chỉ huy hơn thị trường
Năm 1994, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 91/TTg, ngày 7-3-1994, về việc thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh dựa trên các xí nghiệp, công ty cũ. Các tổng công ty (TCT) được thiết lập trong hàng loạt các ngành, một số trường hợp các TCT chiếm toàn ngành. Tuy nhiên, hoạt động của nhiều TCT nhà nước còn thiếu năng động trong kinh doanh, chất lượng sản phẩm chưa được cải tiến đáng kể, sản lượng thấp.
Ý tưởng về những tập đoàn kinh tế (TĐKT) được Thủ tướng Chính phủ đưa ra ngay từ khi quyết định thành lập TCT 91, nhưng phải đến Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ ba, khóa IX (tháng 9-2001), vấn đề thành lập TĐKT mới được đề cập một cách cụ thể. Nghị quyết Hội nghị chỉ rõ: "Hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành, trong đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hóa cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế quốc dân..." .
Khác với các tập đoàn ở nước ngoài, các tập đoàn ở nước ta vừa qua được thành lập bằng một quyết định hành chính, nó có tư cách pháp nhân và nó có nhiều quyền về hành chính đối với các công ty con, và nói chung vốn của nó là vốn của nhà nước hay vốn nhà nước chiếm trên 51%. Tình hình như vậy nó mang tính chất phi thị trường. Được biết ở các nước, Tập đòan kinh tế không phải là một tổ chức có tư cách pháp nhân. Các doanh nghiệp tự nguyện gia nhập Tập đòan có tư cách pháp nhân đầy đủ. Vì thế, không có một mệnh lệnh hành chính nào có hiệu lực trong tập đòan.
Các cuộc hội thảo cùng với phân tích của nhiều chuyên gia kinh tế gần đây cho thấy, các tập đoàn đang hoạt động trong một điều kiện pháp lý chưa hoàn thiện. Việc tổ chức các tập đoàn kinh tế nhà nước là quyết định có tính chất thí điểm và cho đến nay vẫn chưa được tổng kết, đánh giá. Đây là sơ hở lớn. Chính vì thí điểm, nên khung pháp lý không chặt chẽ..
Sự thiếu hoàn thiện có thể được nhận diện trên nhiều khía cạnh, từ mục tiêu thành lập, ngành nghề kinh doanh, cho đến cơ cấu tổ chức, quản lý điều hành trong tập đoàn, vấn đề quản lý cũng như các quy định về quản lý đầu tư trong tập đoàn kinh tế nhà nước.
Thông thường tập đoàn kinh tế xuất hiện và lớn lên từ cạnh tranh và thông qua cạnh tranh, môi trường kinh doanh sẽ sàng lọc ra doanh nghiệp tốt. Những tập đoàn lớn lên và phát triển bằng nguồn lực và tài năng quản lý của chính mình. Nhà nước chỉ đóng vai trò hỗ trợ chính sách, tạo lập môi trường và điều kiện cho tập đoàn hoạt động. Nhà nước không thể can thiệp vào việc thành lập tập đoàn, lệnh cho các doanh nghiệp gia nhập vào tập đoàn và chỉ định một công ty làm công ty mẹ. Những tập đoàn ra đời chĩ thuần túy bằng các biện pháp tổ chức hành chính không thể có sức mạnh kinh tế thống nhất trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Trong tình hình ấy, sự thống nhất trong chính sách công ty, chiến lược kinh doanh chung sẽ khó thực hiện và chuyện xích mích giữa con và mẹ, giữa con với nhau là điều khó tránh khỏi.
Có thể nói việc thành lập tập đoàn kinh tế ở nước ta bằng một quyết định hành chính chỉ là việc đổi tên từ tổng công ty thành tập đoàn.
Lẽ ra sự hình thành tập đoàn phải theo đúng quy luật
Như trên đã nói có thể thấy việc hình thành tập đoàn ở nước ta hoàn toàn không giống với ba cách hình thành tập đoàn nhiều nước khác. Ơ  các nước nguời ta thấy có 3 cách thành lập Tập đòan.
Cách thứ nhất là các công ty đang tồn tại và hoạt động kết hợp lại với nhau bằng cách là các chủ nhân của từng công ty bán cổ phần cho một công ty mới lập, gọi là công ty nắm vốn (lúc đầu gọi là trust), để công ty này, sau khi trả tiền thì có mặt trong trung tâm quyền lực của các công ty đã bán cổ phần, hầu quyết định các vấn đề quan trọng tại đó. Công ty nắm vốn trở thành mẹ, công ty bán vốn trở thành con. Gọi là như thế nhưng có khi công ty con to hơn công ty mẹ, việc góp vốn trả tiền chỉ là trên giấy tờ và do chủ nhân của các công ty con quyết định với nhau.
Cách thứ hai là một công ty làm ăn phát đạt, quản trị giỏi và có nhiều tiền. Dựa trên nhu cầu thị trường, nó bỏ tiền lập một công ty con, rồi nay cái này, mai cái khác để chiếm lĩnh thị trường. Nó đem cơ cấu tổ chức và cơ chế điều hành của công ty mình áp dụng cho các công ty con; cử người vào các trung tâm quyền lực của các công ty con để quyết định theo số vốn của mình. Tập đoàn mạnh được hình thành theo cách này.
Cách thứ ba là các cổ đông lập ra một công ty mẹ từ đầu, rồi công ty mẹ bỏ tiền lập các công ty con. Tập đoàn này yếu về quản trị, vì công ty mẹ chỉ có tiền mà không có một mô hình quản trị áp cho các công ty con.
Cách tập hợp thứ nhất xuất phát từ ý thức về mình và về thị trường của các ông chủ nên đó là sự tự nguyện; tuy nhiên chỉ với điều kiện là các công ty đã có một trình độ quản trị ngang nhau. Cách thứ hai là sự sinh sôi nảy nở của một công ty thành công, cây lớn đẻ ra cây con. Con mang cách thức tổ chức và điều hành của mẹ, nên sau khi hình thành thì hoạt động hiệu quả ngay được. Cách thứ ba là nhờ có tiền. Cho mục đích ở đây, các công ty con thuộc ba cách thức này được gọi là “con đẻ” của công ty mẹ.
Nước ta cần có một số tập đoàn kinh tế mạnh, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu, nhưng sẽ thất bại nếu tạo ra một phong trào thành lập tập đoàn có mẹ, có con nhưng hoạt động sản xuất kinh doanh không có tiến bộ đáng kể nào. Phong trào thành lập tập đoàn ở nước ta có nhiều điều trái khoáy :
- Thông thường công ty mẹ sinh ra công ty con, còn ở ta thì tập hợp con lại và phong cho một công ty làm mẹ. Như vậy mẹ-con chẳng có quan hệ máu mủ ruột rà gì cả!
- Về nguyên tắc thì công ty mẹ là công ty quản trị giỏi, kinh doanh hiệu quả, nguồn lực dồi dào, lập ra công ty con nhằm thực hiện chiến lược phát triển của mình. Còn ở nước ta công ty mẹ to xác nhưng hiệu quả kinh doanh yếu kém, nguồn lực tài chính dựa vào nhà nước với nhiều ưu tiên, ưu đãi, chưa nuôi nổi mình thì làm sao hỗ trợ được cho công ty con. Thậm chí có tập đoàn lại bắt con nuôi mẹ.
- Công ty mẹ là công ty đã khẳng định được giá trị của mình trong chuỗi giá trị sản phẩm nên thành lập tập đoàn để mở rộng liên kết dọc hoặc liên kết ngang, mỡ rộng chi phối đầu vào hoặc đầu ra cho sản xuất, nằm trong chiến lược phát triển làm tăng giá trị trong chuỗi hoặc tăng thị phần trên thị trường, cuối cùng chính là tăng lợi nhuận, tăng hiệu quả kinh doanh. Còn chúng ta thành lập tập đoàn, trong tập đoàn không có được mối liên kết kinh tế, kỹ thuật hay quản trị nội tại, có được tập đoàn to mà không mạnh, thậm chí những lủng củng nội bộ có thể làm yếu đi những công ty con đang mạnh khỏe.
- Tập đoàn kinh tế mạnh là đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế nhưng trước hết phải là nhu cầu cạnh tranh của thị trường nội địa. Chúng ta vừa chuyển từ mô hình kinh tế bao cấp độc quyền sang kinh tế thị trường cạnh tranh. Có nhiều ngành hàng cho đến nay thị trường cạnh tranh lành mạnh chưa thực sự hình thành. Phong trào thành lập tập đoàn lại giúp tái hiện tình trạng độc quyền và lại đòi hỏi bảo hộ, bao cấp của nhà nước, xóa bỏ môi trường cạnh tranh. Không có thị trường cạnh tranh chắc chắn sẽ không có tiến bộ kinh doanh, không có đổi mới kinh tế.
Ở đây, có hai vấn đề cần lưu ý. Thứ nhất, lĩnh vực nào là lĩnh vực then chốt. Thứ hai, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế có phải là hoạt động công ích không? Và liệu các tập đoàn có giữ được vai trò bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và bảo đảm trên cơ sở nào? Khi thực hiện nhiệm vụ “bảo đảm” không theo nguyên tắc thị trường thì những chi phí phát sinh sẽ được hạch toán để bù đắp thế nào?
Có ý kiến cho rằng,tất cả các văn bản có liên quan đều không nói những lĩnh vực nào là then chốt mà tập đoàn cần phát triển và những cân đối lớn của nền kinh tế cần được đảm bảo là gì, mà chỉ có những câu chung chung như hình thành “quả đấm thép”, tạo sức cạnh tranh cho nền kinh tế quốc gia...
1.2.Trục trặc về cơ sở pháp lý
Công ty mẹ có các quyền, nghĩa vụ của công ty nhà nước quy định tại Luật Doanh nghiệp nhà nước (chương III); thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu, thành viên hoặc cổ đông tại các công ty con và công ty liên kết. Công ty mẹ có cơ cấu quản lý gồm Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc, các Phó tổng giám đốc, Kế toán trưởng và bộ máy giúp việc( đ. 21-24 NĐ 111). Các mối quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con được xác định trên cơ sở Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003 hay Luật Doanh nghiệp 2005 tùy theo tính chất của loại công ty con, cụ thể:
  1. Quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Trong mối quan hệ này, công ty mẹ là chủ sở hữu đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 (Đ. 64, 65, 66), Điều lệ của công ty và các quy định của Chính phủ. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên được tổ chức và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
  2. Quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và công ty ở nước ngoài. Trong quan hệ này, công ty mẹ thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cổ đông, thành viên, bên liên doanh, bên góp vốn chi phối theo quy định của pháp luật ( Luật Doanh nghiệp) và Điều lệ của công ty con. Công ty mẹ trực tiếp quản lý cổ phần, vốn góp chi phối ở công ty con; có quyền và nghĩa vụ đối với cổ phần, vốn góp chi phối theo quy định tại Điều 58 của Luật Doanh nghiệp nhà nước. Công ty con là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty ở nước ngoài có cổ phần, vốn góp chi phối của công ty mẹ, được thành lập, tổ chức và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, pháp luật nước ngoài và các quy định pháp luật có liên quan.
  3. Quan hệ giữa công ty mẹ là công ty nhà nước với công ty liên kết, công ty mẹ thực hiện việc quản lý phần vốn góp của mình ở công ty liên kết theo quy định tại Điều 59 của Luật Doanh nghiệp nhà nước.
Tuy nhiên, trong Nghị định 111/CP cũng quy định việc áp dụng mô hình tập đoàn kinh tế theo hình thứccông ty mẹ - công ty con với công ty mẹ là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu. Cụ thể tại điều 29 k.2 của NĐ 111/CP quy định: Đối tượng áp dụng hình thức công ty mẹ - công ty con với công ty mẹ là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu: ….2. Công ty nhà nước thuộc diện phải chuyển sang hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu; đang là công ty mẹ của: tổng công ty do các công ty tự đầu tư và thành lập, tổ hợp công ty mẹ - công ty contập đoàn kinh tế do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.( Cần lưu ý: Trong NĐ 111 chỉ có điều 29k2 đề cập đến tập đoàn kinh tế). Điều đáng nói ở đây là nếu áp dụng theo mô hình này thì luật điều chỉnh công ty mẹ và quan hệ công ty mẹ – công ty con – công ty liên kết chỉ dựa trên các quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 mà thôi ( không áp dụng Luật Doanh nghiệp nhà nước – xem các điều 29 – 33 Nghị định 111/CP). Như vậy khi xử lý các văn bản làm căn cứ pháp lý cho tập đoàn kinh tế, hiện nay có ba vướng mắc:
Một là, Có sự khác nhau trong NĐ 139/CP và NĐ 111/CP về quan niệm  hình thức tồn tại của công ty mẹ. Theo NĐ 139/CP thì công ty mẹ - tập đoàn được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn còn theo NĐ 111 thì công ty mẹ là công ty nhà nước, tức không thể là công ty cổ phần hay công ty TNHH có hai thành viên trở lên, vì chỉ có một chủ sở hữu là nhà nước .
Hai là, trong NĐ 111/CP có đề cập đến công ty mẹ trong tập đoàn kinh tế được tổ chức theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu. Vậy công ty mẹ trong tập đoàn kinh tế nên chăng được tổ chức theo mô hình công ty một thành viên? Điều này mâu thuẫn với tất cả các văn bản như Quyết định của thủ tướng thành lập tập đoàn, Điều lệ của tập đoàn,…
Ba là, cũng trong NĐ 111 có đề cập đến mô hình công ty mẹ là công ty nhà nước, tuy nhiên mô hình này chỉ áp dụng đối với các tổng công ty nhà nước( mà các tập đoàn thì không phải và không muốn trở lại mô hình tổng công ty).
Trên thực tế, việc phân công, phân cấp thực hiện quyền và nghĩa vụ chủ sở hữu nhà nước đối với TĐKT còn những điểm chưa hợp lý, chưa rõ ràng, còn phân tán vai trò và trách nhiệm của các bộ, ngành, UBND trong quản lý, giám sát việc sử dụng vốn, tài sản tại các doanh nghiệp này.
Thêm nữa, cơ chế giám sát và tổ chức thực hiện giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước về sử dụng vốn, tài sản Nhà nước đối với TĐKTNN, tổng công ty còn nhiều bất cập. Quyết định số 224/2006/QĐ-TTg được coi là công cụ quản lý đối với doanh nghiệp Nhà nước để ràng buộc trách nhiệm của ban quản lý doanh nghiệp vào hiệu quả sử dụng vốn, tài sản Nhà nước nhưng chưa có chế tài đủ mạnh xử lý các hạn chế, yếu kém. Chưa có quy chuẩn về quản lý, giám sát đối với tập đoàn, tổng công ty Nhà nước dẫn đến tình trạng mỗi bộ, ngành có cách thức và mức độ quản lý tập đoàn, tổng công ty khác nhau.
Việc giám sát, đánh giá của chủ sở hữu trong thời gian qua chủ yếu căn cứ vào kết quả thực hiện so với kế hoạch do các TĐKT tự xây dựng và đăng ký, nên chưa phản ánh rõ được yêu cầu và đòi hỏi của chủ sở hữu nhà nước đối với các DNNN, dẫn đến nhiều cơ quan nhà nước còn gặp khó khăn trong việc nắm bắt một cách đầy đủ, kịp thời và chính xác thông tin về vốn, tài sản nhà nước và tình hình hoạt động tại các TĐKT. Điều này đã được nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc và sau này người tiền nhiệm của ông là Bộ trưởng Bùi Quang Vinh thừa nhận, việc tới kiểm tra hoặc lấy số liệu của các TĐKT là rất khó, thậm chí có đơn vị còn không tiếp cơ quan của Bộ này đến kiểm tra.
- Một số sai phạm trong quản lý, sử dụng vốn và tài sản nhà nước chỉ phát hiện sau thanh tra, kiểm tra tại các TĐKT hoặc có khiếu nại, tố cáo, hoặc qua báo chí phanh phui.
Thực tế cũng cho thấy, chúng ta còn chậm xây dựng một hệ thống tiêu chí an toàn về mặt tài chính trong hoạt động sản xuất - kinh doanh để làm cơ sở cho giám sát, quản lý Nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty. Trước khi ban hành Nghị định số 09/2009/NĐ-CP ngày 5/2/2009, không có văn bản pháp luật nào quy định hệ số an toàn vốn, tỷ lệ vốn và điều kiện được đầu tư vào các lĩnh vực rủi ro như chứng khoán, ngân hàng, bất động sản, quỹ đầu tư...
Hệ quả là nhiều tập đoàn, tổng công ty đi vay hoặc chiếm dụng vốn quá lớn so với vốn chủ sở hữu, dẫn đến năng lực tài chính yếu kém. Không ít tập đoàn, tổng công ty đầu tư quá nhiều vào các lĩnh vực rủi ro, trong khi đang rất thiếu vốn cho hoạt động sản xuất - kinh doanh chính, vừa làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, tài sản Nhà nước vừa làm giảm năng lực thực hiện nhiệm vụ chính được Nhà nước giao. Điển hình là việc đầu tư vào bất động sản, chứng khoán gây thua lỗ lớn.
Tại kỳ họp thứ 3 - Quốc hội khóa XIII vừa rồi, nhiều đại biểu tập trung chất vấn về bức xúc tại các tập đoàn. Trả lời câu hỏi của đại biể về trách nhiệm của Bộ KH & ĐT về những thất thoát trong các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước (cụ thể là trường hợp Vinalines), Bộ trưởng KH & ĐT Bùi Quang Vinh giãi bày: Các sai phạm của Vinalines, trong các luật quy định chỉ báo cáo chủ sở hữu, không báo cáo lên bộ, ngành. Bộ KH & ĐT có đến xin các báo cáo cũng không được, họ không cho. “Trong luật quy định rõ như thế nên họ báo không có trách nhiệm phải báo cáo. Tôi đã nhận có trách nhiệm liên quan đến quản lý chung, còn về cái cụ thể rất khó”!
Như vậy, có thể hiểu mô hình tổ chức tập đoàn ở nước ta hiện nay là mô hình có tính chất pha trộngiữa quy định về tập đoàn theo những nguyên tắc cơ bản được thừa nhận và tồn tại từ lâu ở nhiều quốc gia với những quy định về tổ chức quản lý tổng công ty nhà nước tồn tại từ trước đến nay ở nước ta, phục vụ các mục tiêu kinh tế – xã hội đã được nhà nước đề ra. Tính chất này càng trở nên rõ hơn khi hệ thống các văn bản về doanh nghiệp nhà nước được ban hành từ trước vẫn đang còn hiệu lực (như NĐ 199/CP năm 2004 về Quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác) vẫn còn hiệu lực áp dụng. Nói khác, công ty mẹ – tập đoàn thì chịu sự điều chỉnh bởi Luật Doanh nghiệp nhà nước còn các công ty con thì hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Tất cả điều này tạo nên tình trạng lệch pha trong tổ chức quản lý và điều hành cũng như xác lập các mối quan hệ công ty mẹ – công ty con và gây nên nhiều lúng túng trong chỉ đạo và điều hành.
Như vậy, có thể kết luận rằng các quy định pháp luật về mô hình tập đoàn kinh tế thời gian qua đã được ban hành, nhưng còn tản mạn và mâu thuẫn. Sự cần thiết hiện nay là phải nhanh chóng thống nhất các quy định.
1.3. Phương pháp điều hành tập đoàn còn nhiều bât cập
Có thể nói trong những năm qua hầu hết những tổng công ty lớn của nhà nước, trừ những ngành có những lợi thế về tài nguyên thiên nhiên hay độc quyền tự nhiên, đều có vấn đề và là gánh nặng cho nền kinh tế (Thực ra, ở các doanh nghiệp có lợi thế cũng có vô số vấn đề, nhưng có thể đang tạm thời được che lấp bởi những nguồn lợi mà chúng mang lại).
Thực tế đặt ra là vậy, nhưng đáng quan tâm hơn là gần đây đang có những xu hướng mà nếu không cẩn thận sẽ gây những tác động không tốt cho nền kinh tế.
Trong cuộc khủng hoảng vừa qua, lẽ ra các tập đoàn, tổng công ty nhà nước phải đóng vai trò xung kích chống lại những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế, nhưng lại tăng trưởng chậm hơn các thành phần kinh tế khác.
Một ví dụ khác liên quan đến tập đoàn Điện lực (EVN). Doanh nghiệp này nắm vai trò bảo đảm nguồn cung điện cho nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Trớ trêu thay, chính sự độc quyền trong khâu truyền tải, phân phối của EVN lại trở thành lực cản lớn đối với sự phát triển nguồn cung cấp điện cho quốc gia.
Khi những vấn đề cơ bản gây ra sự kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước chưa được xử lý một cách triệt để thì các tổng công ty lại đua nhau chuyển thành các tập đoàn và mở rộng hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực mà chúng chẳng có liên quan gì với nhau cũng như hoạt động nòng cốt của doanh nghiệp.
1.4.Hoạt động kém hiệu quả
Hiện nay, việc xây dựng các tập đoàn kinh tế nhà nước đang diễn ra khá rộng mà chưa thấy có đủ cơ sở phân tích khoa học và thực tiễn kinh nghiệm cần thiết. Thực tế mô hình này đã có thành công ở một số quốc gia, trong những giai đoạn nhất định, nhưng cũng không ít nền kinh tế bị chao đảo vì chịu nhiều ảnh hưởng nặng bởi sự thua lỗ của các tập đoàn kinh tế.
Các tổ chức kinh tế gọi là lớn của chúng ta (các tổng công ty 90, 91) là nền tảng để hình thành các tập đoàn, nói chung quy mô còn khiêm tốn. Thêm nữa, khả năng quản lý hệ thống, quản lý mô hình công ty mẹ - công ty con, vấn đề sở hữu… còn nhiều bất cập. Yếu tố then chốt đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động tốt là cơ chế quản lý, quan hệ giữa người trực tiếp điều hành doanh nghiệp với nhà nước với tư cách là chủ sở hữu lại chưa được làm rõ, thực tế hiện nay ở nước ta vẫn là chia sẻ kinh nhiệm. Khi xảy ra sự cố, người điều hành doanh nghiệp thường đẩy trách nhiệm lên trên. Như vậy, người trực tiếp điều hành vừa không đủ quyền tự chủ lại không phải chịu trách nhiệm về kết quả điều hành của mình dẫn đến tình trạng “Cha chung không ai khóc”. Do đó, tình trạng lạm dụng tài sản của Nhà nước mưu lợi cho cá nhân: lợi thì doanh nghiệp hưởng, thua thì nhà nước chịu vẫn phổ biến mà điển hình là sự yếu kém về quản lý dẫn đến các vụ bê bối ở Tập đoàn Dầu khí, Tập đoàn Điện lực . Trong khi đó, quan hệ trách nhiệm giữa người trực tiếp điều hành doanh nghiệp với chủ sở hữu ở các nước khác đã được xác định rạch ròi .
Các Tập đoàn của ta yếu kém trong quản lý, trách nhiệm không rõ ràng chứ không phải yếu do quy mô và cơ cấu sản phẩm. Dưới cái vỏ bọc mới tập đoàn kinh tế như hiện nay, nhưng thực chất vẫn vận hành với chế độ sở hữu cũ, những con người cũ, phần lớn vị trí chủ chốt được bổ nhiệm vì lý do chính trị chứ không dựa trên năng lực quản trị kinh doanh-điều tối cần thiết của người đứng đầu doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh… Vì vậy, cũng không thể kỳ vọng có thể khắc phục được những khiếm khuyết bất cập của các Tập đoàn
Các tập đoàn đầu tư ồ ạt ngoài lĩnh vực chuyên môn, như chứng khoán, ngân hàng, bất động sản đã góp phần làm thiếu vốn sản xuất, tạo sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Đáng ra các tập đoàn phải giúp nhà nước, nhưng vừa qua có hiện tượng gây khó khăn thêm, như cắt điện nhiều, liên tục kêu lỗ, đòi tăng giá điện
Chỉ riêng  tập đoàn, tổng công ty nhà nước đang gánh khoản nợ phải trả lên gần 1,35 triệu tỉ đồng, tương đương 50% GDP, trong đó nợ ngân hàng của riêng những “ông lớn” này chiếm 1/3 tổng dư nợ của cả nền kinh tế
Chưa có quy chuẩn về quản lý, giám sát đối với tập đoàn .Do đó hệ quả là nhiều tập đoàn, tổng công ty đi vay hoặc chiếm dụng vốn quá lớn so với vốn chủ sở hữu, dẫn đến năng lực tài chính yếu kém. Không ít tập đoàn, tổng công ty đầu tư quá nhiều vào các lĩnh vực rủi ro, trong khi đang rất thiếu vốn cho hoạt động sản xuất - kinh doanh chính, vừa làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, tài sản Nhà nước vừa làm giảm năng lực thực hiện nhiệm vụ chính được Nhà nước giao. Điển hình là việc đầu tư vào bất động sản, chứng khoán gây thua lỗ lớn.
2. Giải pháp hoàn thiện Tập đoàn
2.1. Cần thiết tái cấu trúc Tập đoàn
Các tập đoàn kinh tế nhà nước về bản chất là thuộc sở hữu toàn dân. Chính phủ là người đại diện thực hiện quyền sở hữu toàn dân đó. Chính phủ không thể trực tiếp thực hiện quyền của chủ sở hữu nên Chính phủ cử ra hội đồng quản trị làm đại diện. Ở đây xuất hiện một số vấn đề. Trước hết là mối quan hệ giữa chủ sở hữu và đại diện chủ sở hữu. Hiện không có quy định nào thể hiện sự giám sát tập thể của chủ sở hữu nhà nước đối với đại diện chủ sở hữu.  Tình trạng hiện nay là tập đoàn có rất nhiều chủ, nhưng thực tế các ông chủ này chỉ quản lý các tập đoàn về mặt hành chính, trong đó mỗi bộ được giao làm một mảng. Không có ông chủ sở hữu đích thực. Chính vì có quá nhiều chủ nên trở thành vô chủ.
Bên cạnh đó, cũng không có cơ chế giám sát của toàn dân trong quá trình hoạt động của tập đoàn, vốn thuộc sở hữu toàn dân. Nhân dân chỉ có thể giám sát kết quả hoạt động nếu kết quả ấy được báo cáo công khai theo một quy định chặt chẽ. Trong khi hội đồng quản trị - người đại diện chủ sở hữu nhà nước, chỉ lập báo cáo định kỳ hoặc báo cáo theo yêu cầu của Thủ tướng, nhưng các báo cáo này được xử lý, thẩm định thế nào thì không rõ. Chưa nói đến tình hình rất có thể xảy ra là sẽ không ai đọc báo cáo đó.
Sự kiện Vinashin thua lỗ trầm trọng, nhưng vẫn báo cáo có lãi và Chính phủ không hề biết thực tế này, là một ví dụ điển hình.
Vì thế rất cần xây dựng quy chế chặt chẽ để quản lý, kiểm tra giám sát đối với người đại diện vốn của tập đoàn tại các công ty.
Nên nhớ rằng một tập đòan hình thành là do một chính sách nhất quán, chứ không phải vì nó được gọi là Tập đòan .
Nhiều ý kiến cho rằng,nên  lựa chọn mô hình quản trị Holdings, công ty mẹ - con, để cấu trúc lại tập đoàn. Trong đó các công ty con là những công ty kinh doanh ổn định, có thị trường, con người phù hợp được tổ chức thành công ty TNHH MTV hoạt động với tư cách pháp nhân độc lập.
Công ty mẹ điều hành công ty con thông qua việc nắm cổ phần chi phối. Ban lãnh đạo của công ty mẹ có trách nhiệm phát triển dự án mới, thực hiện chiến lược và mục tiêu dài hạn của công ty.
2.2. Một số kiến nghị và giải pháp:
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011 - 2015.
Mục tiêu của Đề án là làm cho doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lý hơn, tập trung vào ngành, lĩnh vực then chốt, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội và quốc phòng, an ninh, làm nòng cốt để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng, điều tiết nền kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô.
Bên cạnh đó, việc tái cơ cấu nhằm nâng cao sức cạnh tranh, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu đối với doanh nghiệp kinh doanh; hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh đối với doanh nghiệp hoạt động công ích.
Quan điểm  thực hiện:
- Thực hiện thường xuyên việc tái cấu trúc doanh nghiệp theo hướng tập trung vào lĩnh vực kinh doanh chủ chốt; tránh cạnh tranh nội bộ, bảo đảm đáp ứng yêu cầu phát triển tương ứng với mô hình phát triển của các tập đoàn.
- Đẩy mạnh tập trung và tích tụ vốn, khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư đan xen (trên cơ sở bảo đảm kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo ở những lĩnh vực, ngành nghề then chốt) thông qua việc đẩy mạnh cổ phần hóa, cơ cấu lại nguồn vốn, tiếp nhận doanh nghiệp thành viên, cùng các thành phần kinh tế khác thành lập các công ty mới… để tạo cơ cấu đa sở hữu nhằm phát huy thế mạnh và tăng cường khả năng cạnh tranh của các tập đoàn kinh tế trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
- Lựa chọn các đánh giá, nhận định có chất lượng cả về lý luận và thực tiễn từ nhiều góc độ của các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm ở trong nước và nước ngoài để có những giải pháp khắc phục hạn chế, phát huy những ưu điểm.
- Sớm hoàn thiện và kịp thời có những hướng dẫn cụ thể các căn cứ pháp lý bảo đảm cho hoạt động của các tập đoàn kinh tế, có các chính sách linh hoạt phù hợp với từng thời kỳ để tạo điều kiện cho các tập đoàn kinh tế nhà nước hoạt động bình đẳng trong sân chơi cạnh tranh.
- Gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và bảo đảm quốc phòng. Đẩy mạnh thực hiện gắn kết giữa nghiên cứu, triển khai, ứng dụng khoa học, đào tạo và sản xuất kinh doanh, bảo đảm môi trường sinh thái. Tăng cường phát triển thương hiệu, văn hóa doanh nghiệp, tích cực chia sẻ những khó khăn với cộng đồng và xã hội.
- Nâng cao vai trò, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh của tổ chức công đoàn và đoàn thanh niên đối với các hoạt động của các tập đoàn.
1)  Sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp là một nhiệm vụ trọng tâm từ 2012-2015
Một trong các giải pháp mà Đề án đưa ra là khẩn trương hoàn thành phê duyệt phương án sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước đến năm 2015 của các Bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. Xác định số lượng, danh sách cụ thể các doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ 100%, nắm giữ trên 75%, nắm giữ từ 65% đến 75%, nắm giữ từ trên 50% đến dưới 65% vốn điều lệ và các doanh nghiệp khác. Trong quá trình thực hiện, căn cứ tình hình thực tế, tiếp tục rà soát để đẩy mạnh cổ phần hóa.
Hoàn thiện tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp theo hướng đẩy mạnh đa dạng hóa sở hữu; xác định rõ những ngành, lĩnh vực khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước nằm giữ trên 75%, từ 65% đến 75%, dưới 65% vốn điều lệ  hoặc không giữ cổ phần.
Thực hiện cho được mục tiêu sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp theo các phương án đã được phê duyệt; coi đây là nhiệm vụ trọng tâm trong các năm 2012 - 2015.
2)  Chấm dứt đầu tư ra ngoài ngành trước năm 2015
Từng tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập trình Thủ tướng Chính phủ; từng tổng công ty, doanh nghiệp do Bộ trưởng, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thành lập trình Bộ, UBND tỉnh, thành phố Đề án tái cơ cấu để phê duyệt trong Quý III năm 2012.
Đồng thời, phải xây dựng phương án tài chính để triển khai thực hiện nhiệm vụ chính được giao và xử lý các tồn tại về tài chính trong quá trình tái cơ cấu.
Cụ thể, chấm dứt tình trạng đầu tư ra ngoài ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính trước năm 2015.
Đối với các lĩnh vực: Ngân hàng, tài chính, chứng khoán, bất động sản, bảo hiểm, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước thực hiện theo các hướng: 1- Bán phần vốn của công ty mẹ - tập đoàn/tổng công ty nhà nước cho tổ chức, cá nhân ngoài tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, không bán hoặc chuyển giao lại cho các đơn vị thành viên trong nội bộ; 2-Chuyển vốn về những tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh phù hợp. Việc chuyển vốn thực hiện thông qua hình thức chuyển giao vốn hoặc chuyển nhượng vốn; 3- Chuyển toàn bộ doanh nghiệp do tập đoàn, tổng công ty giữ 100% vốn sang tập đoàn, tổng công ty có ngành nghề kinh doanh cùng với ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp chuyển giao. Thực hiện dưới hình thức chuyển nhượng doanh nghiệp hoặc chuyển giao nguyên trạng.
Những tập đoàn, tổng công ty nhà nước đang có khó khăn về tài chính, một mặt cần làm rõ trách nhiệm của cán bộ quản lý có liên quan, mặt khác cần cơ cấu lại vốn, tài sản theo hướng: Đánh giá thực trạng, xác định nhu cầu vốn để có cơ chế xử lý bổ sung vốn cho tiếp tục thực hiện các dự án đầu tư cấp bách, hạn chế thất thoát vốn do kéo dài thời gian dự án; cơ cấu lại tài sản bằng cách chuyển nhượng, sáp nhập các dự án, các khoản đầu tư không hiệu quả hoặc chưa cấp thiết để tập trung nguồn lực cho hoạt động kinh doanh chính.
Kiên quyết sắp xếp, cơ cấu lại hoặc giải thể, phá sản những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh toán nợ đến hạn theo quy định.
3) Kiện toàn công tác quản lý của Nhà nước và thực hiện các quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với tập đoàn. Hình thành mới một cơ quan của Chính phủ quản lý thống nhất mọi mặt hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước. Thực hiện ủy quyền tối đa cho hội đồng thành viên tập đoàn trên cơ sở tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để các tập đoàn chủ động, quyết định kịp thời và chịu trách nhiệm về các vấn đề lớn trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư và đấu thầu đối với những vấn đề đòi hỏi phải có quyết định nhanh chóng, không để lỡ những cơ hội sản xuất, kinh doanh; thường xuyên sửa đổi, bổ sung Điều lệ tổ chức và hoạt động, Quy chế tài chính của tập đoàn cho phù hợp với thực tiễn hoạt động của tập đoàn theo từng giai đoạn, từng thời kỳ phát triển.
Việc thành lập Tập đòan âu cũng là chuyển đã rồi. Vì thế tốt nhất là nên tiếp thu những kinh nghiệm tốt để quản lý Tập đòan của những Tập đòan nước ngòai như đã nêu trên và tiếp thu những ý kiến của các chuyên gia nhằm góp phần hòan thiện trong chừng mực nào đó tổ chức và họat động của Tập đòan đủ sức làm vai trò chủ đạo của nền kinh tế./-

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Võ văn Kiệt Thời báo Kinh tế SG 26-7-2007.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2012). Báo cáo tình hình hoạt động của các TĐKT nhà nước năm 2012
3. Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp (2013). Báo cáo Tổng quan tình hình hoạt động và tái cơ cấu các TĐKT, tổng công ty nhà nước năm 2012, định hướng nhiệm vụ năm 2013
4. GS-TS Hồ Đức Hùng, ĐẾ ÁN XÂY DỰNG CÁC GIẢI PHÁP VỀ QUẢN LÝ TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH KHI CHUYỂN ĐỔI TỪ TỔNG CÔNG TY CAO SU VIỆT NAM SANG TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP CAO SU VIỆT NAM
5. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr 21


No comments:

Post a Comment