Wednesday, October 1, 2014

Tìm giải pháp chống ngập ở TP Hồ Chí Minh

2._hinh_2
ND - Trước sự bức thiết trong việc tìm kiếm giải pháp chống ngập úng trên địa bàn TP Hồ Chí Minh, ngày 15-11-2007, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quyết định thành lập Tổ nghiên cứu đề xuất giải pháp chống ngập úng cho thành phố. Sau hơn ba tháng, giải pháp được đưa ra là xây dựng hệ thống cống và đê bao quanh thành phố theo kiểu khép kín để kiểm soát điều tiết mực nước sông rạch, với vốn đầu tư 7.200 tỷ đồng.
TP Hồ Chí Minh là đô thị lớn nhất Việt Nam với số dân khoảng 7 triệu người, diện tích 2.092 km2, trong đó 40% là khu vực đô thị nội thành, 60% là vùng nông nghiệp nông thôn. Nằm ở vùng hạ du sông Sài Gòn - Ðồng Nai, vùng đất thấp dưới 2 m chiếm đến 61% diện tích cho nên thành phố luôn phải đối mặt nguy cơ ngập do mưa lũ, triều cường.

 2._hinh_1

Trong lịch sử phát triển đô thị, bài toán chống ngập cho thành phố đã được đặt ra cách đây gần 150 năm. Người Pháp đã từng quy hoạch xây dựng thành phố  theo kiểu phương Tây, như một Paris thu nhỏ. Năm 1862, đề án xây dựng hệ thống điều tiết thủy triều được đưa ra với ý tưởng thiết lập một hệ thống thoát nước theo chế độ tự động, bằng cách đào hồ nhân tạo lớn giữa thành phố để điều hòa nước. Ðây là ý tưởng tốt nhưng thời đó lại bị cho là ảo tưởng vì số tiền đầu tư cho đề án này quá lớn.

Ðến năm 1943 kế hoạch chỉnh trang đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn với tầm nhìn quy hoạch 60 năm, phát triển thành phố đến năm 2000 quy mô hơn một triệu dân cũng đã được đề xuất.  Kế hoạch cũng đưa ra giải pháp phải đào một cái hồ lớn ở vị trí phía tây đường Ðinh Tiên Hoàng ngày nay để chứa nước mưa, và lấy đất tôn cao nền xây dựng nhà cửa. Quanh hồ sẽ thiết lập khu triển lãm, khu thể thao,... Tuy nhiên, đề án này cũng không thể thực hiện.

Sau năm 1975, khi đất nước hòa bình thống nhất, TP Hồ Chí Minh mới bắt đầu phát triển mạnh, nhất là từ 20 năm trở lại đây. Cũng chính thời gian này thành phố thường xuyên bị tình trạng ngập lụt tại nhiều khu vực.

Do nhu cầu phát triển TP Hồ Chí Minh mở rộng rất nhanh. Những vùng trũng ở quận 7, quận 8, Nhà Bè, Bình Chánh và một số kênh rạch trước đây là "hồ" điều tiết nước tự nhiên đã bị san lấp, bê-tông hóa không khoa học, đã tạo sự mất cân bằng nước trong khu vực rộng lớn.

Theo giáo sư Nguyễn Sinh Huy, Hội Thủy lợi TP Hồ Chí Minh, mực nước biển hiện nay hầu như không tăng so với nhiều năm trước đây, nhưng do  san lấp những vùng trữ nước cho nên mức triều trên các sông dâng cao, khiến nhiều vùng nội đô bị ngập. Số liệu đo đạc cho thấy thời gian truyền triều pha đỉnh từ Vũng Tàu đến Phú An vào năm 1982 dao động từ hai đến bốn giờ nhưng đến năm 2000 chỉ còn một đến hai giờ. Ðây là biểu hiện xấu về áp lực của biển đối với đất liền. Thủy triều tác động nhanh hơn, mạnh hơn do năng lượng triều cường mạnh hơn. Ðiều này ảnh hưởng chế độ ngập nước và tiêu thoát, xói lở bờ sông.

Theo bản đồ ngập lụt của TP Hồ Chí Minh xây dựng năm 2003, vùng ngập lũ do ảnh hưởng triều cường gồm dải đất ven sông Sài Gòn diện tích 15.000 ha, dải đất phía tây diện tích 15.000 ha, vùng ngập nước ở ngã ba sông Ðồng Nai-Sài Gòn 9.000 ha. Vùng đất ngập triều gồm Nam Bình Chánh, quận 7, quận 8, Nhà Bè và Cần Giờ có diện tích 81.000 ha. Nguyên nhân gây ngập TP Hồ Chí Minh được TNC xác định do triều cường, lũ, mưa và tổ hợp của cả ba nhân tố này.

Riêng trận lũ năm 2000, hồ Trị An xả lũ 600 m3/s, hồ Ðồng Nai và Dầu Tiếng xả 4.411 m3/s đã gây ngập 22.344 căn nhà ở thành phố. Lũ phá hủy 40.204 km bờ bao, 31 km kênh mương, 254 km đường nông thôn, ngập hơn 8.000 ha diện tích lúa, cây ăn trái, cây công nghiệp. So sánh lũ năm 2000 với lũ thiết kế theo quy định 0,5% thì lũ năm 2000 chỉ bằng 18% lũ thiết kế. Nếu lũ lớn tần suất 200 năm/xảy ra một lần, mức độ thiệt hại đối với thành phố là rất nghiêm  trọng.

Ðối với triều cường, TNC cho rằng hiện tại không nên làm cống trên sông Sài Gòn mà chỉ kiểm soát triều cường ở vòng trong (nội đồng). Biện pháp là đắp đê bao dọc sông Ðồng Nai-Sài Gòn. Ðộ cao của các công trình xây dựng được khuyến cáo thấp nhất từ 2,5 m so mặt nước biển. Theo dự báo đến năm 2070, khi nước biển dâng cao do sự biến đổi khí hậu toàn cầu từ 50 đến 100 cm so với hiện nay do biến đổi khí hậu toàn cầu, nước trong sông sẽ chảy hai chiều và vấn đề giảm lũ bên trong đã được giải quyết, mới đặt ra biện pháp ngăn triều cường trên sông lớn.

Từ những phân tích đặc điểm tự nhiên, tính chất ngập lụt, khả năng kiểm soát nước ngoại lai, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, TNC phân ra ba vùng kiểm soát nước khác nhau. Khu vực bờ hữu sông Sài Gòn - Nhà Bè là vùng khống chế khu vực nội thành cũ cần xây dựng hệ thống công trình khép kín. Khu vực ngã ba sông Ðồng Nai - Sài Gòn cần xây dựng hệ thống khép kín bao bọc  các khu nhà vườn, khu du lịch sinh thái. Khu vực bờ tả sông Nhà Bè - Soài Rạp là vùng đệm sẽ được giải quyết ngập bằng các công trình kiểm soát nước lớn, tùy thuộc tình hình nước biển dâng và quá trình phát triển đô thị phía nam. Ðể chống ngập trong điều kiện hiện tại có thể dùng hệ thống bờ bao nhỏ.

Nhiệm vụ của hệ thống kiểm soát mực nước mà đề án đặt ra là phải giữ cho mực nước trên kênh rạch trong khu vực không vượt quá mức cho phép, bảo đảm cho khu vực không bị ngập do triều cường vào mùa khô, do nước mưa cùng với thủy triều vào mùa mưa. Hệ thống còn góp phần cải tạo môi trường nước mặt nhờ cách vận hành hệ thống chảy một chiều trong thời gian nhất định, tiếp nước sạch từ sông Sài Gòn và tiêu thoát về phía nam ra sông Soài Rạp; cải thiện điều kiện giao thông thủy trong vùng và hạn chế ảnh hưởng giao thông thủy liên vùng, trong đó có các tuyến đường thủy quốc gia.
Ngập, lụt do triều cường tại quận 8 (TP Hồ Chí Minh). 
Hệ thống 12 cống được bố trí trên tuyến đê bao tại tất cả các cửa sông rạch đổ ra sông Sài Gòn, Nhà Bè, Vàm Cỏ Ðông như Rạch Tra, Vàm Thuật, Bến Nghé, Tân Thuận, Phú Xuân, Mương Chuối, sông Kinh, sông Kinh Lộ, Kinh Hàng, Thủ Bộ, Bến Lức, kênh Xáng Lớn. Cống thiết kế hở, cho phép thuyền bè lưu thông dễ dàng trong thời gian không cần kiểm soát mực nước.

Hệ thống đê bao với tổng chiều dài 164 km, cao trình các tuyến đê không được thấp hơn 2,5 m và có dự phòng nâng lên khi nước biển dâng trong tương lai. Hướng thoát nước chính trong khu vực là hướng bắc nam, vì vậy hệ thống kênh trục thoát nước chính được xác định là kênh theo hướng này. Các kênh Rạch Tra, Thầy Cai, An Hạ, Chợ Ðệm, Vàm Thuật, Tham Lương, Bến Cát, rạch Nước Lên,... với tổng chiều dài 109 km cần được đầu tư cải tạo, nạo vét, mở rộng. Các "hồ" điều tiết nước gồm các kênh rạch phía nam sông Sài Gòn và một số khu vực đất trũng không nên san lấp để có đủ dung tích dự phòng chứa lượng nước mưa rút ra từ trung tâm thành phố nhưng chưa thoát được ra sông trong thời gian triều cường.

Bộ NN và PTNT ước tính kinh phí đầu tư cho dự án khoảng 7.200 tỷ đồng. Lộ trình thực hiện chia ba giai đoạn. Giai đoạn 1 đầu tư 4.000 tỷ đồng xây dựng sáu cống lớn tại Phú Xuân, Mương Chuối, sông Kinh, Kinh Lộ, Kinh Hàng, Thủ Bộ và các cống nhỏ tại các rạch khác; xây dựng tuyến đê bao nối các cống; nạo vét các kênh trục thoát nước trung tâm thành phố về phía nam. Khi hoàn thành có thể làm giảm mực nước cao nhất trên các kênh rạch trong khu vực dưới cao độ 1,00 m, bảo đảm cho khu trung tâm và nam thành phố không còn bị ngập do thủy triều và mưa.

Giai đoạn 2 đầu tư 2.000 tỷ đồng xây dựng hai cống lớn tại Rạch Tra, Vàm Thuật và các cống nhỏ tại các rạch khác nối liền tiểu dự án hệ thống bờ hữu sông Sài Gòn; nạo vét các tuyến kênh trục bắc-nam. Khi hoàn thành, hệ thống sẽ làm giảm mực nước cao nhất vùng trũng dọc theo trục kênh Rạch Tra, Thầy Cai, An Hạ và Tham Lương-Bến Cát, đồng thời có thể vận hành một chiều, cải thiện môi trường nước mặt trong khu vực.

Giai đoạn 3 khép kín toàn bộ hệ thống kiểm soát mực nước. Kinh phí đầu tư 1.200 tỷ đồng, xây dựng bốn cống lớn tại Bến Nghé, Tân Thuận, Bến Lức, kênh Xáng Lớn, mở thông cống An Hạ hiện hữu và xây dựng hoàn chỉnh tuyến đê bao. Tuy nhiên theo Bộ NN và PTNT, việc thực hiện đề án có thể rút ngắn thành một giai đoạn, có thể đồng loạt thi công vì các công trình nằm rải rác chung quanh thành phố.

Các công trình kiểm soát nước nội đồng do TNC đề xuất có thể "chịu đựng" được đến khi nước biển dâng cao 0,8 m. Hiệu quả đưa ra rất rõ, tuy nhiên mặt trái của đề án vẫn chưa lường được. Trong đó có vấn đề ô nhiễm môi trường ở các sông, áp lực và nguy cơ ngập nước đối với các vùng chung quanh thành phố như Long An, Ðồng Nai, Bình Dương sẽ như thế nào?

Chống ngập cho TP Hồ Chí Minh là vấn đề cấp bách và lâu dài.  Khi chọn hướng phát triển ra biển trong điều kiện nước biển dâng cao cần phải đầu tư lớn cho công trình chống ngập. Do đó, cần có tầm nhìn đến 50-70 năm nữa. Dự án chống ngập ảnh hưởng đến giao thông thủy bộ, cảng biển, quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội, môi trường, ảnh hưởng đến lợi ích các vùng, các tỉnh thành phố và cả nước như thế nào cần được bàn thấu đáo để thực hiện công trình đem lại hiệu quả tốt nhất, tránh gây lãng phí thiệt hại.

TP Hồ Chí Minh tiếp tục thu thập thêm ý kiến của nhân dân, các nhà khoa học để hoàn thiện đề án chống ngập, đáp ứng yêu cầu trước mắt đồng thời chủ động ứng phó trước những biến đổi khí hậu toàn cầu.

*Ông LÊ THANH HẢI, Ủy viên Bộ Chính trị,Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh:

Ðây là dự án quan trọng và cần thiết đối với thành phố hiện nay. Dự án càng thực hiện sớm càng có lợi, cho nên thành phố sẽ huy động mọi nguồn lực thực hiện. Trước khi trình Chính phủ, sẽ công bố rộng rãi dự án quy hoạch để nhân dân góp ý kiến.

Quan điểm của lãnh đạo thành phố là xử lý ngập lụt phải tập trung thực hiện nhiều giải pháp tổng hợp, tiến hành đồng thời cả ba giai đoạn trong dự án để công trình sớm được khởi công, hoàn thành và phát huy tác dụng.

* Ông CAO ÐỨC PHÁT, Ủy viên T.Ư Ðảng, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:

Ðề nghị TP Hồ Chí Minh sớm có ý kiến chấp thuận để Bộ trình Thủ tướng Chính phủ xem xét phê duyệt. Năm 2008 sẽ lập dự án khả thi, tiến hành ngay việc khảo sát thiết kế tuyến cống, đê và các hạng mục công trình khác để có thể khởi công vào năm 2009 hoặc 2010.

Ngoài ra, Bộ cũng đề nghị được tiếp tục nghiên cứu thêm các giải pháp, nhằm giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện ngăn lũ.

* Giáo sư NGUYỄN SINH HUY, Hội Thủy lợi TP Hồ Chí Minh, Chủ nhiệm đề án:

Ðề án được xây dựng trên cơ sở phân tích điều kiện tự nhiên, nguyên nhân ngập úng, điều kiện thoát lũ của các cửa sông hiện tại, đúc rút kinh nghiệm về những tác động của con người trong quá trình khai thác nguồn nước, kiểm soát nước trên lưu vực sông Sài Gòn và sông Ðồng Nai và có tính dự báo khả năng nước biển dâng cao trong tương lai khi trái đất ấm lên.

* Ông TRẦN QUANG PHƯỢNG, Giám đốc Sở Giao thông công chính TP Hồ Chí Minh:

Mục tiêu của dự án là giải quyết tình trạng ngập "bên ngoài" thành phố, dù việc chống ngập "bên ngoài" cũng sẽ làm giảm ngập "bên trong" (khu vực nội thành) song vẫn phải tính toán việc chống ngập cho toàn vùng. Kinh phí dự kiến 7.200 tỷ đồng chắc chắn không đủ. Việc thực hiện dự án này cần tính kỹ để không ảnh hưởng đến giao thông thủy và kế hoạch phát triển kinh tế biển của thành phố.

* Giáo sư ÐÀO XUÂN HỌC,Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:

Việc thi công cùng một lúc 12 cống ngăn triều cường không gặp khó khăn về mặt kỹ thuật và thuận lợi vì làm trên sông, không vướng đền bù và giải tỏa. Ngăn triều cường từ xa không ảnh hưởng thoát nước trong nội thành và vẫn bảo đảm giao thông thủy, vì chỉ đóng cống bốn tiếng/ngày, trong hai tháng trong năm.

* Ông NGUYỄN TRUNG TÍN, Phó Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh:

Ðây là dự án quy hoạch tổng thể, mang tính chiến lược lâu dài, có ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế - xã hội để thành phố phát triển bền vững. Tuy nhiên, trong lúc chờ dự án khởi công và phát huy tác dụng, thành phố vẫn tiếp tục thực hiện chương trình chống ngập theo kế hoạch đề ra.

* Ông NGUYỄN GIỚI, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:

Nghiên cứu kỹ, tôi thấy đây là dự án quy hoạch tốt nhất, rất công phu và chất lượng cao, có thể thực hiện ngay nhằm chống ngập cho TP Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, việc làm cống trên sông Soài Rạp và sông Lòng Tàu cần tính toán kỹ đến mực nước biển dâng cao trong tương lai để không ảnh hưởng hệ sinh thái tự nhiên, sự phát triển của hai huyện Duyên Hải và Nhà Bè. Chống ngập là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách. Vì thế trước mắt, cần tập trung kinh phí xử lý những điểm ngập. Thời gian thực hiện dự án quy hoạch cũng cần xem lại, rút ngắn, không nên kéo dài thời gian thiết kế, thi công như dự án đề ra.

No comments:

Post a Comment