Friday, September 19, 2014

Công nghiệp văn hóa ở VN: Thiếu tiền, dư... mâu thuẫn

Một cuộc hội thảo với tên gọi “Công nghiệp văn hóa ở VN - thực trạng và giải pháp” do Viện Văn hóa nghệ thuật - Bộ VH-TT&DL tổ chức vừa diễn ra sáng 30-8 tại Hà Nội.

30.Hinh_1
“Ở Canada, công nghiệp văn hóa đóng góp 46 tỉ USD vào tổng sản phẩm quốc nội và thu hút 600.000 lao động chỉ riêng năm 2007. Ở Nhật Bản, chỉ riêng tổng doanh thu từ việc xào đi nấu lại bộ truyện tranh Đôrêmon - bản quyền truyền hình, xuất bản truyện tranh, làm quà lưu niệm... - đã lên đến 2 tỉ USD” - TS Nguyễn Danh Ngà, vụ trưởng Vụ Kế hoạch - tài chính, đưa ra những con số thống kê “khiêm tốn” qua các cuộc khảo sát thị trường văn hóa nước ngoài để so sánh với thực trạng VN: tất cả đều mới manh nha, chưa có con số thống kê nào cụ thể cho biết doanh thu hoặc lợi nhuận từ kinh doanh văn hóa. Điều đó không chỉ thể hiện ở việc chưa có chính sách hay chưa có con số thống kê, mà ngay cả khái niệm “công nghiệp văn hóa” cũng còn quá mới với VN.
Trong bối cảnh đó, hội thảo đã thu hút các diễn giả là những người có nhiều năm lăn lộn với thị trường văn hóa và tích cực vận động để có một chính sách năng động, hiệu quả hơn nhằm tạo ra một nền công nghiệp văn hóa VN thật sự. Chỉ tiếc là có quá ít người nghe, nhất là những người có trách nhiệm.
Thực trạng cần được nhìn thẳng
“Điện ảnh VN mỗi năm sản xuất khoảng mười phim nhựa, nhưng chỉ có 1/10 số phim này được người xem tiếp nhận ngoài thị trường, thậm chí tỉ lệ này cũng không ổn định”- vẫn con số thống kê của TS Ngà. “Cả nước có 129 đơn vị biểu diễn nghệ thuật, trong đó có 12 đơn vị trực tiếp do Bộ VH-TT&DL quản lý. Chỉ tính riêng 12 đơn vị này mỗi năm Nhà nước đầu tư trung bình 100 tỉ đồng, nhưng trực tiếp vào vở diễn chỉ chừng 10 tỉ đồng, còn phần lớn dành cho bảo trì cơ sở làm việc, điện nước, lương bổng, chính sách...
Vì thế mà mỗi đơn vị một năm chỉ dựng được 2-3 vở là cao lắm. Và doanh thu bán vé từ tất cả các đơn vị này không bao giờ qua được con số 30 tỉ đồng/năm, không bằng phần nhỏ doanh thu của một công ty tổ chức biểu diễn tư nhân. Không cần phải là một công ty lớn ở TP.HCM sầm uất, chỉ một công ty khá khá ở Hà Nội như Công ty Sơn Lâm thì doanh thu tổ chức biểu diễn hằng năm cũng đã lên tới hơn 100 tỉ” - con số được ông Trương Nhuận, phó giám đốc Nhà hát Tuổi Trẻ, công bố.
“Trong bảng thống kê cơ cấu tổng sản phẩm trong nước theo thực giá chia theo ngành kinh tế, các hoạt động văn hóa và thể thao chỉ chiếm 0,55% năm 1995 và năm 2008 tụt xuống còn 0,44%” - ông Nguyễn Lâm Tuấn Anh, Viện Văn hóa nghệ thuật, dẫn theo Tổng cục Thống kê.
Sinh động hơn, TS Phạm Việt Long, nguyên chánh văn phòng Bộ Văn hóa - thông tin (cũ), chua chát: “Hằng năm, tôi với anh Ngà đều phải sang Bộ Tài chính “xin” duyệt kinh phí làm phim, kinh phí làm triển lãm, quảng bá văn hóa, kinh phí bảo tồn bảo tàng... Một khi đã đi “xin” thì tất nhiên bị hoạnh họe đủ điều. Là vì chúng ta rất mơ hồ về kinh doanh văn hóa, chứ đừng nói đến công nghiệp văn hóa. Và cũng vì chúng tôi không chứng minh được lợi nhuận cụ thể từ việc làm văn hóa là bao nhiêu nên người ta không muốn bỏ tiền đầu tư là tất nhiên”.
Một nền tảng có quá nhiều mâu thuẫn
Trong chặng đường đầu tiên của việc xác lập một khái niệm về công nghiệp văn hóa, tiến tới xây dựng ngành công nghiệp văn hóa của mình, theo TS Nguyễn Danh Ngà: “Khó khăn cơ bản của VN không chỉ là thiếu tiền mà là hàng loạt vấn đề đặt ra cần giải quyết về nhận thức luận.
Chẳng hạn như mâu thuẫn giữa các giá trị văn hóa vốn mang tính trừu tượng, định tính với hiệu quả kinh tế thị trường vốn mang tính cụ thể, định lượng; mâu thuẫn giữa tính cấp bách của phát triển văn hóa với nhận thức lạc hậu của nhiều người đối với công nghiệp văn hoá; mâu thuẫn giữa khả năng tăng trưởng nhanh chóng của tiêu dùng văn hóa với sự lạc hậu của phương thức sản xuất văn hóa, cơ chế kinh doanh văn hóa chưa có sự linh hoạt và đồng bộ; mâu thuẫn giữa nhu cầu bức thiết của công nghiệp văn hóa và hệ thống chính sách không nhất quán dẫn tới sự chia cắt các ngành nghề, các khu vực theo lối mạnh ai nấy làm; mâu thuẫn giữa nhu cầu rất lớn của công nghiệp văn hóa với tiền vốn và nguồn vốn xã hội chưa thu hút được”.
Để có nền công nghiệp văn hóa
Các nhà nghiên cứu và các nhà tư vấn chính sách có mặt tại hội thảo đều xác định: muốn xây dựng công nghiệp văn hóa trước hết phải đổi mới quan niệm của chúng ta về lĩnh vực mới mẻ này. Theo TS Ngà: “Phải thay đổi tư tưởng coi sự nghiệp văn hóa là ngành nghề phi sản xuất, không thể đem lại của cải cho xã hội. Tiếp theo là phải nhìn đúng các vấn đề xuất hiện trong thị trường văn hóa. Pháp luật, cơ chế, thể chế và ý thức quần chúng đang vào thời kỳ biến đổi nhanh chóng. Trong thị trường văn hóa khó tránh khỏi xuất hiện các vấn đề phức tạp nhưng không vì thế mà phủ định thị trường văn hóa”.
TS Ngà cũng cho rằng: “Công nghiệp văn hóa là một ngành công nghiệp, vì thế nó cần một hệ thống chính sách phù hợp. Trình độ quản lý hành chính về văn hóa trực tiếp tác động vào công nghiệp văn hóa. Quản lý văn hóa đòi hỏi phải có hành lang pháp lý thuận lợi cho quá trình sản xuất và tiêu dùng văn hóa, quản lý vĩ mô là chính, vi mô là phụ, tổng hợp cả những biện pháp về kinh tế và pháp luật, hành chính, giáo dục, dư luận, tin tức”.
Cụ thể hơn, TS Phạm Việt Long cho rằng nên học tập những nước có nền công nghiệp văn hóa phát triển mạnh nhất: “Ở Mỹ đã từ lâu chính phủ tính vào chi phí sản xuất cho những doanh nghiệp tài trợ cho văn hóa và miễn thuế cho các hoạt động văn hóa. Ở VN, chúng ta nên bắt đầu từ việc thôi cái điệp khúc “xin cấp kinh phí” mà hãy xin một cơ chế để nhà đầu tư yên tâm bỏ tiền và có khả năng thu lợi nhuận cao”.
THU HÀ

No comments:

Post a Comment