Wednesday, September 23, 2020

THẦY GIÁO ĐẦU TIÊN CỦA TÔI: CHÚ NGUYỄN TRƯƠNG TOẠI
Có lẽ không ai lại có thể quên người Thầy giáo đầu tiên của đời mình. Tôi cũng vậy.
Năm 1949, mới 5 tuổi, tôi đòi bà Nội và Mẹ cho đi học “Ấu Trĩ”. “Ấu Trĩ” là lớp đầu tiên cắp sách đến trường, là lớp bắt đầu học chữ a,b,c, người ta còn gọi là lớp “I TỜ”, sau này gọi là lớp “VỠ LÒNG”, còn từ khi có hệ phổ thông 12 năm thì đó là lớp 1. Biết tôi chưa đủ 6 tuổi theo qui định của lớp Ấu Trĩ, bà Nội và Mẹ tôi ngần ngại, viết thư hỏi ý kiến Cha tôi, đang công tác trong chiến khu. Cha tôi trả lời: nên cố gắng xin cho Phúc đến trường lớp sớm, cho vào qui củ, đừng để Phúc ở nhà, sẽ phát triển tự do, như năm ngoái mới 4 tuổi đã tự học, tự biết đọc biết viết, như vậy là không bình thường.
Thế là tôi được đi học lớp Ấu Trĩ. Người Thầy giáo đầu tiên của đời tôi, Thầy giáo lớp Ấu Trĩ, là Thầy Nguyễn Trương Toại, 17 tuổi. Cả lớp gọi là Thầy Toại, riêng tôi vẫn gọi là Chú Toại. Gia định tôi và gia định Chú là bà con ruột thịt, Bà Cố Nội của Chú là em ruột Ông Cố Nội của Cha tôi. Chú sinh năm 1932, ở xóm Săng xã Xa Lang xưa, nay là xã Sơn Tân. Ông Thân sinh của chú giữ chức Hương Bộ của Xã, tương đương Cán bộ quản lý Hộ tịch Nhân khẩu của UBND Xã Phường ngày nay.
Lớp Ấu Trĩ đặt tại “Nhà Thánh Xã”. Nhà Thánh Xã là Nhà thờ Cụ Khổng Tử, Cụ Tổ của Đạo Nho. Đạo Nho là hệ tư tưởng chính thống của các nhà nước phong kiến Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Cụ Khổng Tử được Xã hội tôn xưng là “Thánh”, cao hơn “Thần”. “Nhà Thánh Xã” là Miếu thờ Cụ Thánh Khổng Tử ở cấp xã, nhà Thánh ở cấp Trung ương là “Văn Miếu”, ở cấp Tỉnh là “Văn Miếu tỉnh”, ở cấp Huyện là “Nhà Thánh huyện”.
Đây là “Nhà Thánh Xã” của Xã Xa Lang, khu đất rộng chừng 10 nghìn m2, nằm trên bờ Sông Phố, trên đầu Xóm Trại của xã Sơn Tân ngày nay, với 5,6 ngôi nhà gỗ Lim, xây tường lợp ngói, có tường vây xung quanh. Ở đây có cây Trôi, rất to, gốc cây khoảng 6 người ôm (đường kính chừng 3m), cách xa 3 - 4 km còn nhìn thấy ngọn cây này. Khoảng năm 1970 cây Trôi bỗng nhiên chết, có lẽ vì quá già cỗi.
Sau cuộc “Hợp Tự” 1947, tất cả trang bị trong khu nhà Thánh được chuyển xuống thờ chung tại Đền Trúc, nhà Thánh xã trở thành trống rỗng. Năm 1949, Thầy Toại và khoảng 20 học trò lớp Ấu Trĩ chúng tôi chiếm ngôi nhà lớn nhất, rộng mênh mông, trước là điện thờ, làm lớp học.
Thầy Toại trẻ trung, giảng dạy rất sinh động. Tôi nhớ mãi không quên một hình ảnh. Hôm ấy Thầy dạy chúng tôi học chữ “en – lờ”. Đầu tiên Thầy nhắc hôm nọ đã học chữ “e”, thầy viết chữ “e” lên bảng, rồi giảng tiếp, hôm nay có một con Mèo, nó cắn vào đầu chữ “e”, rồi nó kéo ngược lên, thế là đầu chữ “e” cao dần lên, cao dần theo nét phấn của Thầy, và cuối cùng chữ “e” biến thành chữ “en – lờ”!
Thầy Toại dạy cho chúng tôi hát múa và nhiều trò chơi lý thú. Thường thì thời gian học chữ chỉ bằng một nửa thời gian múa hát và chơi trò chơi.
Ngày đó máy bay Pháp bắt đầu ném bom vùng tự do Liên Khu Bốn (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà tĩnh). Thầy Toại dạy chúng tôi ẩn nấp khi có báo động máy bay giặc. Đang học bài, đột nhiên Thầy thổi còi báo động, tất cả chúng tôi nhanh chóng chạy ra ngoài, nhảy xuống các hầm đào sẵn dưới bóng cây Trôi. Còn Thầy, đeo một túi cát, đi lòng vòng quanh các hầm, miệng phát tiếng “ù, ù . . .” như tiếng máy bay, tay thỉnh thoảng ném tung một nắmcát, như giặc Pháp ném bom. Thầy đã dạy trước đó, khi nghe giặc Pháp ném bom thì cúi mình xuống thật thấp và 2 tay ôm đầu.
Thầy dạy nhiều bài hát rất giản dị của tuổi thơ. Tôi còn nhớ một bài, dù đã gần 70 năm trước, về tiếng kêu của lũ Ểnh Ương (Chẩu Chàng) sau mưa:
“Trời mưa xuống hoài, Trời mưa xuống hoài
“Nác (nước) đầy ao,
“Cân chi hắn kêu tề (con gì nó kêu kìa)
“Êệnh oạng . . .
“Cân chi hắn kêu tề (con gì nó kêu kìa)
“Êệnh oạng . . . “
Về nhà, thỉnh thoảng, tôi cứ thích thú hát một mình, đến nỗi, Bà Nội, Mẹ, chị Thanh, chi Quí đều thuộc.
Thời đấy Cha tôi làm công tác chế tạo vũ khí ở chiến khu, mỗi năm được nghỉ phép 10 ngày, đi bộ từ Công binh xưởng ở Miền Tây Nghệ An về nhà, khoảng 150 cây số. Mỗi lần về phép, Cha tôi mời các Thầy Cô giáo của các con đến nhà dự một bữa tiệc nhỏ của gia đình, tỏ lòng biết ơn và kính trọng các Thầy Cô giáo. Năm 1949, có thêm Thầy giáo đầu tiên của con trai, là Thầy Toại – Chú Toại.
Sau bữa cơm, Bà Nội tôi khoe: Chú Toại dạy Cháu Phúc một bài hát hay lắm, cháu sẽ hát tặng các Thầy.
Thế là thằng bé 5 tuổi, được đặt đứng lên ghế, cạnh bàn khách, cất tiếng hát:
“Trời mưa xuống hoài, Trời mưa xuống hoài
“Nác (nước) đầy ao,
“Cân chi hắn kêu tề (con gì nó kêu kìa)
“Êệnh oạng . . .
“Cân chi hắn kêu tề (con gì nó kêu kìa)
“Êệnh oạng . . . “
Cả nhà thích thú cười vang, vỗ tay hoan hô. Chú Toại đứng lên, bế thằng cháu - học trò, âu yếm vuốt mái tóc, khen ngợi. Các Thầy giáo của chị Thanh và chị Quí cũng chuyền tay nhau bế thằng bé, khen ngoan và dạn dĩ.
Bà Nội, Cha, Mẹ tôi nở nụ cười mãn nguyện. Cha tôi thay mặt gia định nói lời tri ân các Thầy Cô, đặc biệt tri ân Thầy giáo đầu tiên của đứa con trai 5 tuổi.


TS Nguyễn Bách Phúc
Chủ tịch Hội Tư vấn Khoa học Công nghệ và Quản lý TPHCM HASCON
Viện trưởng Viện Điện-Điện tử-Tin học EEI


No comments:

Post a Comment