Điều đó về mặt số học có thể hoàn toàn chính xác nhưng về mặt trả nợ thì vay trong nước khác vay nước ngoài nhiều lắm.
Nhìn ngắn hạn, vay bằng ngoại tệ trên thị trường quốc tế xem ra rẻ hơn nhiều so với vay bằng tiền đồng. Dù có cộng thêm cả mức lãi suất phụ trội mà nhà đầu tư thường đòi hỏi đối với các thị trường mới nổi như Việt Nam thì mức lãi phải trả cho các loại trái phiếu quốc tế trước mắt vẫn thấp hơn mức lãi phải trả cho trái phiếu phát hành trong nước.
Nhưng trong trung hạn và dài hạn, các khoản vay nước ngoài sẽ tạo ra những áp lực to lớn lên nền tài chính quốc gia mà nếu không tính toán kỹ sẽ là gánh nặng thường trực cho đất nước. Đó là bởi với các khoản trái phiếu trong nước, Chính phủ dễ dàng phát hành trái phiếu mới mỗi khi trái phiếu cũ đáo hạn. Lãi suất tiền đồng dù cao nhưng lạm phát cũng sẽ làm cho món nợ về thực chất nhỏ đi nhiều lần. Với hệ thống ngân hàng và tài chính nằm trong tầm kiểm soát chặt chẽ thì việc tìm đầu ra cho trái phiếu tiền đồng là không khó khăn cho lắm.
Ngược lại, như kinh nghiệm đã cho thấy, các khoản nợ nước ngoài thì không thể trông cậy vào “công cụ lạm phát” để hóa giải, cũng không thể dễ dàng “đảo nợ” như vay trong nước. Có lẽ ngành tài chính đã thấm chuyện này khi các khoản vay nước ngoài của các tập đoàn kinh tế nhà nước đáo hạn mà không trả được đã gây áp lực lên túi tiền quốc gia và lên tỷ giá như thế nào.
Chính vì thế, các cảnh báo về nợ công bỏ quên một yếu tố quan trọng: nợ công chưa đáng lo bằng nợ nước ngoài. Ví dụ nợ công của Nhật Bản hiện đã lên trên 227% GDP (số liệu năm 2014) nhưng không gây quan ngại bởi đến 93% nợ công của nước này do ngân hàng trung ương nước này và các tổ chức tài chính, quỹ đầu tư trong nước khác nắm giữ; chỉ có 7% trái phiếu chính phủ Nhật Bản là do nước ngoài nắm. Ngược lại, lấy ví dụ Iceland, nợ công năm 2008 tăng vọt nhưng cũng chỉ bằng chừng 70% GDP trong khi nợ nước ngoài của nước này lại bằng gấp 7 lần GDP dù đó là nợ của hệ thống ngân hàng chứ không phải nợ của chính phủ. Gánh nặng nợ nước ngoài này cuối cùng làm hệ thống ngân hàng nước này sụp đổ, Iceland phải quốc hữu hóa chúng và tuyên bố vỡ nợ.
Báo cáo chính thức của Chính phủ cho biết nợ nước ngoài của quốc gia tính đến cuối năm nay là 41,5% GDP, còn cách mốc an toàn 50% khá xa. Thế nhưng khác với nợ công, yếu tố an toàn trong nợ nước ngoài không hẳn nằm ở tỷ lệ so sánh với GDP mà nằm ở khả năng tạo ra dòng tiền ngoại tệ để trả nợ theo đúng kế hoạch. Một khi nợ vay về mà đầu tư tràn lan hay thiếu hiệu quả theo kiểu 750 triệu đô la Mỹ của Vinashin ngày trước thì dù chỉ là một khoản vay nhỏ so với GDP, nợ nước ngoài cũng có thể là mối rủi ro không lường hết cho tương lai.
Thời báo Kinh tế Sài Gòn
|
Friday, November 6, 2015
Nợ nước ngoài mới đáng lo
Thời báo Kinh tế Sài Gòn, ngày 05/11/2015, http://www.thesaigontimes.vn/137971/No-nuoc-ngoai-moi-dang-lo.html, Nhận định về kế hoạch phát hành 3 tỉ đô la Mỹ trái phiếu quốc tế để “tái cơ cấu” nợ ngắn hạn trong nước bằng vay nợ nước ngoài dài hạn, Thứ trưởng Tài chính Đỗ Hoàng Anh Tuấn cho rằng việc này không làm thay đổi tổng nợ.
Subscribe to:
Post Comments (Atom)

No comments:
Post a Comment