Diệp Văn Sơn
Chuyên viên cao cấp, nguyên
Phó vụ trưởng Bộ Nội vụ.
Chi hội trưởng Chi hội quản
lý hành chính, Hội Tư vấn
Khoa học Công nghệ và Quản lý
TPHCM HASCON
1. Một số vấn đề có tính nguyên tắc cần quan tâm khi xây dựng Luật
về Hội
Khi XHDS tồn tại không những không loại trừ sự tồn tại của nhà
nước mà ngược lại, sự có mặt của một nhà nước là rất cần thiết để điều hành,
bảo đảm cho XHDS tồn tại và phát triển. XHDS văn minh rất cần một nhà nước ổn
định, vững chắc. Có Luật nhằm góp phần
tạo điều kiện ghi nhận, minh bạch hóa hoạt động của các tổ chức XHDS.
Luật này sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc định hình XHDS. Cùng với quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, quyền tự do hội họp, quyền biểu tình, thì quyền tự do lập hội là những quyền tự do chính trị cơ bản của con người, không những trong các văn kiện của Đảng và trong các bản Hiến pháp nước ta đều trịnh trọng qui định . Những quyền này, suy cho cùng là để đảm bảo vai trò của mỗi cá nhân trong xã hội. Thông qua quyền lập hội, các tổ chức xã hội được thành lập và đó là tiếng nói của những người dân được tập hợp lại với nhau để tạo thành một sức mạnh, cùng Nhà nước thực hiện những mục tiêu của hệ thống chính trị, để kiểm soát Nhà nước, để bảo vệ mình, để chống lại những tiêu cực trong xã hội như tham nhũng, nhũng nhiễu, quan liêu, hách dịch, cửa quyền; để tự mình giải quyết những công việc mà không cần thông qua nhà nước…
Để Luật về hội không trở thành hạn chế tự do của con người, một số vấn đề sau cần phải lưu ý trong nội dung Luật về hội.
Thứ nhất, việc thành lập hội cần được hiểu như quyền của công dân và nhà nước cần có trách nhiệm thực thi và bảo vệ. Chính vì vậy, cá nhân hoặc một nhóm cá nhân, thậm chí một tổ chức, muốn thành lập hội chỉ cần đăng ký với cơ quan nhà nước chứ không phải xin phép nhà nước. Chính vì vậy, thủ tục đăng ký cần rõ ràng, đơn giản và không bị phụ thuộc vào ý chí chủ quan “cho phép thành lập hay không cho phép thành lập” của cơ quan công quyền. Cụ thể ở ViệtNam , Bộ nội vụ
nên là cơ quan duy nhất tiếp nhận hồ sơ đăng ký lập hội của công dân ở cấp quốc
gia và Sở nội là nơi đăng ký hoạt động của hội ở cấp tỉnh trở xuống. Không nên
tạo ra cơ chế “song trùng” trong quản lý bao gồm bộ chủ quản (Bộ nội vụ) và các
bộ chuyên môn vì như vậy sẽ biến hoạt động dân sự thành hoạt động quản lý nhà
nước.
Thứ hai, Luật về hội nên bao trùm tất cả các hình thức tổ chức đảm bảo quyền hội họp và tự do biểu đạt của người dân dưới mọi hình thức. Như vậy, Hội có thể là hội có thành viên, không thành viên, hoạt động ở quốc gia hay cấp cơ sở. Mọi Hội đều bình đẳng trước pháp luật không phân biệt quy mô, nguồn lực, lĩnh vực hoạt động hoặc xuất thân của người sáng lập. Bên cạnh đó, việc cạnh tranh bình đẳng và hợp tác cần được bảo đảm, tránh trường hợp độc quyền trong thành lập hội.
Thứ ba, lĩnh vực hoạt động của Hội cần được mở rộng, nếu có giới hạn, ví dụ vì liên quan đến an ninh quốc gia, thì phải rõ ràng không mơ hồ tránh sự tùy tiện của cơ quan công quyền trong việc hạn chế quyền lập hội của công dân. Hội nên có quyền tham gia hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích của thành viên, cung cấp dịch vụ cho hội viên, hoạt động vận động xã hội và chính sách, hoạt động kinh tế nếu lợi nhuận được sử dụng cho hoạt động của Hội. Việc không giới hạn hoạt động của Hội đảm bảo mọi công dân đều có quyền thành lập, gia nhập hoặc từ bỏ Hội, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của xã hội, và nhu cầu của các tầng lớp nhân dân khác nhau.
Thứ tư, thúc đẩy cơ chế tự chịu trách nhiệm và tự giám sát hoạt động của Hội thông qua cấu trúc quản trị nội bộ hơn là qua cơ chế báo cáo và giám sát của cơ quan nhà nước. Đây là điều quan trọng vì trong cuộc sống đa dạng với hàng trăm nghìn Hội được thành lập và hoạt động, việc quản lý giám sát của các cơ quan hành chính nhà nước là rất tốn kém, nếu như không nói là không xuể. Chính vì vậy, Luật về hội cần quy định rõ ràng các Hội sẽ phải có cơ chế quản trị nội bộ minh bạch, trách nhiệm giải trình rõ ràng với cơ quan cấp phép hoạt động (Bộ nộ vụ), với công chúng, các nhà tài trợ và các thành viên của hội. Có như vậy trách nhiệm và hoạt động minh bạch, hiệu quả, và độc lập tự chủ của Hội mới được đảm bảo.
Cuối cùng, việc thảo luận và xây dựng Luật về hội cần xuất phát trên tinh thần xây dựng, không nên để thái độ tiêu cực cho rằng nhiều nhóm sẽ lợi dụng Luật về hội để hoạt động chống phá trở thành chủ đạo, dẫn đến thái độ “kiểm soát” hơn là “tạo điều kiện” trong xây dựng Luật về hội. Để đảm bảo điều này, cần có sự tham gia rộng rãi của các thành phần xã hội khác nhau, đặc biệt của các cá nhân, nhóm và mạng lưới đang hoạt động ở ViệtNam . Sự tham gia của những nhóm đối
tượng này sẽ giúp xây dựng một Luật về hội bao trùm và công bằng làm nền tảng
cho sự phát triển của đời sống dân sự trong xã hội Việt Nam .
2. Góp ý nội dung các điều khoản
Luật này sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc định hình XHDS. Cùng với quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, quyền tự do hội họp, quyền biểu tình, thì quyền tự do lập hội là những quyền tự do chính trị cơ bản của con người, không những trong các văn kiện của Đảng và trong các bản Hiến pháp nước ta đều trịnh trọng qui định . Những quyền này, suy cho cùng là để đảm bảo vai trò của mỗi cá nhân trong xã hội. Thông qua quyền lập hội, các tổ chức xã hội được thành lập và đó là tiếng nói của những người dân được tập hợp lại với nhau để tạo thành một sức mạnh, cùng Nhà nước thực hiện những mục tiêu của hệ thống chính trị, để kiểm soát Nhà nước, để bảo vệ mình, để chống lại những tiêu cực trong xã hội như tham nhũng, nhũng nhiễu, quan liêu, hách dịch, cửa quyền; để tự mình giải quyết những công việc mà không cần thông qua nhà nước…
Để Luật về hội không trở thành hạn chế tự do của con người, một số vấn đề sau cần phải lưu ý trong nội dung Luật về hội.
Thứ nhất, việc thành lập hội cần được hiểu như quyền của công dân và nhà nước cần có trách nhiệm thực thi và bảo vệ. Chính vì vậy, cá nhân hoặc một nhóm cá nhân, thậm chí một tổ chức, muốn thành lập hội chỉ cần đăng ký với cơ quan nhà nước chứ không phải xin phép nhà nước. Chính vì vậy, thủ tục đăng ký cần rõ ràng, đơn giản và không bị phụ thuộc vào ý chí chủ quan “cho phép thành lập hay không cho phép thành lập” của cơ quan công quyền. Cụ thể ở Việt
Thứ hai, Luật về hội nên bao trùm tất cả các hình thức tổ chức đảm bảo quyền hội họp và tự do biểu đạt của người dân dưới mọi hình thức. Như vậy, Hội có thể là hội có thành viên, không thành viên, hoạt động ở quốc gia hay cấp cơ sở. Mọi Hội đều bình đẳng trước pháp luật không phân biệt quy mô, nguồn lực, lĩnh vực hoạt động hoặc xuất thân của người sáng lập. Bên cạnh đó, việc cạnh tranh bình đẳng và hợp tác cần được bảo đảm, tránh trường hợp độc quyền trong thành lập hội.
Thứ ba, lĩnh vực hoạt động của Hội cần được mở rộng, nếu có giới hạn, ví dụ vì liên quan đến an ninh quốc gia, thì phải rõ ràng không mơ hồ tránh sự tùy tiện của cơ quan công quyền trong việc hạn chế quyền lập hội của công dân. Hội nên có quyền tham gia hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích của thành viên, cung cấp dịch vụ cho hội viên, hoạt động vận động xã hội và chính sách, hoạt động kinh tế nếu lợi nhuận được sử dụng cho hoạt động của Hội. Việc không giới hạn hoạt động của Hội đảm bảo mọi công dân đều có quyền thành lập, gia nhập hoặc từ bỏ Hội, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của xã hội, và nhu cầu của các tầng lớp nhân dân khác nhau.
Thứ tư, thúc đẩy cơ chế tự chịu trách nhiệm và tự giám sát hoạt động của Hội thông qua cấu trúc quản trị nội bộ hơn là qua cơ chế báo cáo và giám sát của cơ quan nhà nước. Đây là điều quan trọng vì trong cuộc sống đa dạng với hàng trăm nghìn Hội được thành lập và hoạt động, việc quản lý giám sát của các cơ quan hành chính nhà nước là rất tốn kém, nếu như không nói là không xuể. Chính vì vậy, Luật về hội cần quy định rõ ràng các Hội sẽ phải có cơ chế quản trị nội bộ minh bạch, trách nhiệm giải trình rõ ràng với cơ quan cấp phép hoạt động (Bộ nộ vụ), với công chúng, các nhà tài trợ và các thành viên của hội. Có như vậy trách nhiệm và hoạt động minh bạch, hiệu quả, và độc lập tự chủ của Hội mới được đảm bảo.
Cuối cùng, việc thảo luận và xây dựng Luật về hội cần xuất phát trên tinh thần xây dựng, không nên để thái độ tiêu cực cho rằng nhiều nhóm sẽ lợi dụng Luật về hội để hoạt động chống phá trở thành chủ đạo, dẫn đến thái độ “kiểm soát” hơn là “tạo điều kiện” trong xây dựng Luật về hội. Để đảm bảo điều này, cần có sự tham gia rộng rãi của các thành phần xã hội khác nhau, đặc biệt của các cá nhân, nhóm và mạng lưới đang hoạt động ở Việt
2. Góp ý nội dung các điều khoản
Về tên gọi của luật: LUẬT VỀ HỘI.Theo chúng tôi tên gọi Luật
về hội vẫn chưa nêu bật lên được tính xã hội của của các hội và với tên gọi như
vậy thì Luật này vẫn hàm chứa việc nhà nước sẽ quản lý và điều phối hoạt động
của hội. Do đó, Luật này nên giữ tên gọi theo Luật 102/SL, của Chủ tịch nước
ngày 20/5/1957 đó
là Luật về quyền lập hội, để làm sao nêu bật lên được quyền và sự tự chủ của
người dân khi tham gia vào việc lập, quản lý hoạt động của hội. Từ tên gọi như vậy, nội dung của luật phải theo hướng tạo
điều kiện, thúc đẩy quyền được lập hội của công dân, và tạo điều kiện cho các
hoạt động của hội được độc lập, tự chủ và không nên thiết lập các quy định mang
tính hành chính nhà nước cho các hoạt động thành lập, tổ chức và hoạt động của
các tổ chức dân sự.
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng
áp dụng
1. Luật này quy định về tổ chức, hoạt động của hội và quản lý nhà nước hội
có tư cách pháp nhân.
Đồng ý
khoản 2.
Lý do:Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và 5 tổ chức quần chúng trực thuộc (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam,
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh
Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam) cũng là các hội quần chúng tự nguyện,
nhưng được tổ chức theo các nguyên tắc chặt chẽ hơn, quan hệ chặt chẽ và trực
tiếp hơn với đảng cầm quyền, chịu sự lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp của đảng cầm
quyền.Ngoài ra,các tổ chức giáo hội không thuộc sự điều chỉnh của quy định về
hội. Vì Hội theo quan niệm của Việt Nam, không bao gồm Đảng chính trị và các tổ
chức tôn giáo.
Bổ sung
thêm khoản
3. Hội không có tư cách pháp nhân
hoạt động theo quy định của Chính phủ.
4. Hiệp hội doanh nghiệp của nuớc ngoài thành lập, hoạt động tại Việt Nam
theo quy định của Chính phủ.
Điều 2. Hội
...vì mục tiêu,đưa DÂN CHỦ lê trên CÔNG BĂNG cho
đúng trật tự ghi trong cương lĩnh
Điều 3. Bảo đảm quyền lập hội
Đề nghị
viết chia thành 3 khoản cho rõ.
1. Công dân có quyền lập hội, gia nhập hội, ra khỏi hội theo quy định của
luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền lập hội của công dân, tạo điều kiện
cho hội hoạt động và phát triển.
3. Tổ chức và hoạt động của hội phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật.
Điều 4.Chính sách của Nhà nước
Tại khoản 4 có nội dung Nhà nước có chính sách chế độ đối với cán bộ
công chức đươc luân chuyên,điều động,phân công sang làm việc tại hội.
Có nên chăng CBCC tham gia Hội (thường là cương vị
lãnh đạo).Theo chúng tôi thì không nên.Lý do:
-Đưa đến Nhà nước hóa,hành chính hóa hoạt động của
hội
-Xung đột lợi ích.
-Khó thực hiện chức năng phản biện.
Điều 6. Nguyên tắc tổ chức, hoạt động
của hội
Bỏ khoản
4 Tự bảo đảm kinh phí hoạt động thay bằng Tự chủ về tài chính
Điều 8. Các hành vi bị nghiêm cấm
Bổ sung
thêm cho rõ. Xâm hại
đạo đức xã hội, thuần phong, mỹ tục, truyền thống và bản sắc dân tộc.
Điều 9. Điều kiện thành lập hội
Gộp khoản 4,5, bổ sung thành một khoản:
Có phương án về cơ cấu tổ chức, điều
lệ; có trụ sở và tài sản độc lập.
Bổ sung ý cho khoản 6. Có số người có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ đăng ký tham gia hội tối thiểu theo quy định
của Chính phủ.
Điều 10. Ban vận động thành lập hội
Bổ sung 2
khoan cho chặt chẽ :(1). Ban vận động thành lập hội có
ít nhất 3 sáng lập viên.
(2). Sáng lập viên là công dân từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ, có hiểu biết chuyên môn, nghiệp vụ trong lĩnh vực hội dự kiến hoạt
động, trừ người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải chấp hành hình
phạt tù hoặc bị Toà án tước
một số quyền công dân có liên quan; trường hợp sáng lập viên là tổ chức thì
tổ chức đó phải được thành lập hợp pháp.
Điều 11. Đăng ký thành lập hội
Bổ sung
trong hồ sơ ,Lý lịch
tư pháp của người đứng đầu ban vận động thành lập hội;
Điều 31. Nội dung quản lý nhà nước về
hội
-Bỏ khoản 3 . Hướng dẫn
nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về hội.
-Khoản 6
viết gọn lại Quản lý nhà nước về hoạt động hợp
tác quốc tế của hội.là đủ không cần liệt kê
như trong dự thảo.
Điều 32. Trách nhiệm quản lý nhà nước về
hội
-
Khoản 3 Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm để hội tham gia thực hiện chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu,
tư vấn, phản biện, cung cấp dịch vụ công; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật thuộc ngành, lĩnh vực quản lý của mình.
Cần phải viết rõ các cơ quan nầy không làm
nhiệm vụ chủ quản như xưa nay để tránh hiện tượng song trùng không rõ trách nhiệm
-
Khoản
4-Uỷ ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương( sau đây gọi chung là Ủy ban ...
Cần nói rõ trách nhiệmcủa Tỉnh đối với các
hội do Bộ nội vụ cấp phép ,quản lý đống trên địa bàn
-
Khoản
5 Cấp Huyện...cũng vậy đối với cấp Huyện
Diệp Văn Sơn
Tp HCM 15-6-2015
No comments:
Post a Comment