Thursday, November 20, 2014

Nữ bác sĩ 83 tuổi, “bà nội” của 60 em nhỏ nhiễm chất độc da cam

Báo Lao Động, ngày 18/11/2014,      http://laodong.com.vn/xa-hoi/nu-bac-si-83-tuoi-ba-noi-cua-60-em-nho-nhiem-chat-doc-da-cam-267700.bld,         - Năm nay, tuy đã 83 tuổi rồi, nhưng ngày ngày bà vẫn chăm sóc cho 60 trẻ em bị nhiễm chất da cam/dioxin tại làng trẻ em Hòa Bình trong khuôn viên Bệnh viện Từ Dũ. 23 năm làm Phó giám đốc kiêm Bí thư Đảng ủy của một bệnh viện phụ sản hàng đầu cả nước, “gia tài” bà để lại cho con cháu và hậu thế là lòng yêu thương dành cho những trẻ em bị chất độc da cam và những thân phận phụ nữ nghèo.
Hình ảnh bà Hai Chung chăm lo cho các em không may mắn tại làng Hòa Bình.
Người con gái xứ dừa

Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Mỏ Cày – cái nôi của phong trào Đồng Khởi Bến Tre, bà Hai Chung (tên thật là Tạ Thị Chung, SN 1931) tham gia cách mạng từ nhỏ. Hoạt động giao liên, bà dâng hiến cả tuổi thanh xuân cho sự nghiệp giải phóng quê hương. Sa vào tay giặc, bà vẫn giữ vững khí tiết của người cộng sản nên bọn mật vụ không thể khai thác được gì. Đưa người nữ chiến sĩ đi cầm tù hơn một năm trời nhưng thông tin chúng thu được chẳng được gì hơn ngoài gia cảnh của bà. Được thả ra, bà lại tiếp tục liên lạc với tổ chức, tiếp tục hoạt động. Năm 1973, bà ra Bắc rồi được đi đào tạo nâng cao chuyên môn trong ngành y.

Ngày giải phóng Sài Gòn, bà trở về cùng đoàn quân chiến thắng, tiếp quản Bệnh viện Từ Dũ từ đống đổ nát sau chiến tranh. Học hành bài bản, lại có kinh nghiệm trong điều hành ngành y, nên bà được giao nhiệm vụ làm Phó Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ, kiêm Bí thư Đảng ủy. Với đặc thù là một cơ sở y tế phụ sản, số cán bộ, công nhân viên nữ chiếm đến hơn 80%, nên việc đầu tiên bà làm là chăm lo cuộc sống của chị em cũng như duy trì đoàn kết trong công việc hàng ngày, chuyên môn, cũng như điều hành tập thể. Suốt 23 năm trên cương vị đó, hiếm có vị lãnh đạo ngành y nào được như bà. Từ một bệnh viện cỡ nhỏ, chuyên thực hiện hoạt động phụ sản, bà đã chung tay cùng hàng trăm con người nơi đây đưa Từ Dũ thành một cơ sở y tế lớn nhất nhì cả nước về chăm lo sức khỏe cho phụ nữ.
Tuy đã bước vào cái tuổi 83, nhưng bà vẫn rất minh mẫn. Nhớ lại thời kỳ chân ướt chân ráo tiếp quản bệnh viện, bà kể: “Bệnh viện Từ Dũ trước năm 1975 cơ bản là một “hhà thương thí” do chế độ cũ lập ra. Xen kẽ giữa nhà làm việc, phòng điều trị, phòng hộ sinh là những phòng dành cho sĩ quan, binh lính chế độ cũ ăn ở, sinh hoạt, làm việc”. Giữa cơ man sự lộn xộn đó, với tư cách là người đứng đầu, bà đã cùng các y bác sĩ xắn tay áo, lại vào sắp xếp. Những năm đầu của thập kỷ 80 là giai đoạn khó khăn và nhiều thử thách nhất đối với bà và đội ngũ cán bộ, nhân viên bệnh viện.
“Ngày đó, kinh tế khó khăn lắm. Ngoài nhiệm vụ chuyên môn, các y, bác sĩ, nhân viên còn phải đi tăng gia sản xuất để đảm bảo đời sống”, bà bồi hồi nhớ lại. Trước hoàn cảnh khó khăn đó, một số người từng công tác tại đây đã dứt áo ra đi, một bộ phận vượt biên ra ngước ngoài. Quyết không để đời sống anh chị em lâm cảnh khốn cùng, cũng như giữ lại những cán bộ có chuyên môn, bà đề xuất được mở phòng khám ngoài giờ để nâng cao thu nhập cho mọi người. Được chính quyền đồng ý, nhưng bên cạnh đó cũng có những ý kiến trái chiều, bà cùng Ban Giám đốc lại tiếp tục tìm ra con đường, cách thức để thực hiện ý tưởng. Đến năm 1985, phòng khám ngoài giờ đã được công nhận là mô hình tốt, cần thiết khi nền kinh tế cả nước đang dần chuyển mình sang giai đoạn đổi mới.
Những năm 90, lúc tình trạng vô sinh bắt đầu nóng lên trong xã hội, bà cùng tập thể lại cùng nhau suy nghĩ, tìm cách nào đó để thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm. Áp dụng thành công, bệnh viện đã mang lại cho hàng nghìn cặp vợ chồng hiếm muộn thực hiện được thiên chức làm cha, làm mẹ. Không những hết mình cho bệnh viện, bà còn là cánh chim đầu đàn của ngành y tế thành phố trong sự nghiệp chăm lo sức khỏe của nhân dân. Nói như một lãnh đạo của bệnh viện Từ Dũ thì: “Không có cô Hai Chung thì không có Bệnh viện Từ Dũ như ngày hôm nay, cán bộ, nhân viên bệnh viện không làm được những điều to tát như thế”.
Bà nội của 60 hoàn cảnh trong làng Hòa Bình
Tuy đã về hưu 16 năm nay, nhưng hình bóng bà Hai Chung vẫn gắn chặt với Bệnh viện Từ Dũ - mà cụ thể là làng Hòa Bình - một cơ sở do bà và những tấm lòng thơm thảo lập ra. Bà kể, trong 23 năm công tác tại đây, bà chứng kiến có quá nhiều những đứa trẻ ra đời không được toàn vẹn bởi ảnh hưởng của chất độc da cam. Trăn trở với nỗi đau đồng loại, bà lại bàn với cấp ủy, lãnh đạo lập ra một cơ sở chăm sóc những đứa trẻ đáng thương này. Tận dụng một cơ sở cũ, làng Hòa Bình ra đời ngay trong khuôn viên bệnh viện.
Trong số 200 đứa trẻ không vẹn toàn đã được chăm sóc tại đây, có đứa được gia đình chăm sóc, nhưng số đông thì bị bỏ rơi bởi nhiều lý do khác nhau. Khi chưa có Làng Hòa Bình, chúng được nuôi tại phòng dưỡng nhi. Bên cạnh việc nuôi dưỡng các cháu bằng kinh phí của bệnh viện và sự đóng góp của các nhà hảo tâm, bà cùng Ban giám đốc thành lập trung tâm khoa học nghiên cứu tác hại của chất độc dioxin đối với sức khỏe của bà mẹ và trẻ em, làm bằng chứng cất lên tiếng nói đòi công lý cho các nạn nhân Việt Nam khi khởi kiện ra các tòa án ở Mỹ, buộc các công ty cung cấp hóa chất cho quân đội Mỹ phải bồi thường cho các nạn nhân.
Kể về công việc hiện nay của mình, bà nói: “Chừng nào tôi không còn sức lực thì mới hết chăm cho bọn trẻ”. 60 hoàn cảnh đáng thương làng Hòa Bình hiện đang nuôi dưỡng là 60 niềm hy vọng không chỉ của bà mà của xã hội. Trong số đó, có nhiều bạn trẻ đã đạt được nhiều thành tích trong học tập, lao động. Một thời, cặp song sinh Việt Đức là hiện tượng trong y học thì giờ đã là tấm gương sáng cho các bạn khác trong làng noi theo với thành tích học tập đáng nể. Hay như vận động viên bơi lội Nguyễn Hồng Lợi đoạt hàng loạt huy chương tại các đại hội thể thao trong nước và quốc tế là minh chứng cho sự nỗ lực vươn lên của các hoàn cảnh tật nguyền trong cơ sở có một không hai này.
Có người nói bà già lắm rồi, nên nghỉ ngơi nhưng hằng ngày bà vẫn muốn đến với những đứa trẻ thân yêu tại làng Hòa Bình. 16 năm trời, bất kể nắng mưa, cứ tầm 4h30 sáng bà lại mặc áo blouse trắng tới làng, chăm cho những đứa trẻ từng miếng ăn, giấc ngủ. Hình ảnh bà thân thiết đến mức, khi ai đó nhắc đến tên bà thì các bạn đều thốt lên: “Bà nội của em đó”.
Hỏi chuyện với Hồng Lợi về “Bà nội Hai Chung”, Lợi tâm sự: “Bọn em ở trong làng, có gì vui buồn đều tâm sự với bà nội. Nhiều lúc thấy bà thức khuya, dậy sớm để chăm sóc em và các bạn cùng cảnh ngộ, bọn em không cầm được dòng nước mắt. Hiếm có ai thương bọn em như bà và ai trong số bọn em cũng đều mong bà đến để được gọi tên bà, cố gắng học tập, lao động để được nhìn thấy bà cười”. Có lẽ, tình thương của bà dành cho các hoàn cảnh tại đây đã bù đắp được những gì họ bị mất đi do số phận, nên hầu như bạn nào cũng cố gắng hết sức để làm bà nội vui.
“Có nhiều đứa chăm học lắm. Đứa nào học giỏi, tôi kêu gọi tài trợ để mua cho máy tính, xe cộ để đi học thành tài, cống hiến cho xã hội, có tương lai ổn định. Làng Hòa Bình làm được nhiều điều nên nhận được sự ủng hộ của nhiều nhà hảo tâm, cộng với sự quan tâm của chính quyền và lãnh đạo bệnh viện, hy vọng nơi đây sẽ là nơi ươm mầm cho những ước mơ của các hoàn cảnh không may mắn”, bà thổ lộ.
Bên cạnh việc chăm lo cho những trẻ em trong làng Hòa Bình, bà Hai Chung còn là người đề xuất mô hình nhà tạm lánh cho các chị em phụ nữ bị ruồng bỏ khi mang thai ngoài ý muốn. Mô hình tốt đẹp đó đã cứu giúp cho rất nhiều chị em phụ nữ thoát khỏi những áp lực khi mang hoang thai, giúp họ vững tâm tiếp tục cuộc sống với đứa con của mình. Ngoài ra, chính bà Hai Chung là người nảy ra ý tưởng cũng như thành lập Hội Chữ thập đỏ của Bệnh viện Từ Dũ vào năm 1998.
“Bệnh nhân nghèo, không có tiền thì mình tạo một quỹ để giúp đỡ họ trang trải chi phí thuốc men, điều trị”, bà nói ngắn gọn về mục đích ra đời của quỹ. Sau 16 năm hoạt động, quỹ này đã cứu giúp cho rất nhiều hoàn cảnh khó khăn không chỉ tại bệnh viện mà còn tổ chức được nhiều chuyến khám chữa bệnh miễn phí cho đồng bào nghèo ở các tỉnh xa.
Trở về căn nhà của mình sau buổi chăm sóc cho các em trong làng Hòa Bình, bà lại tất bật nấu cháo, chăm đứa cháu nội. Nhìn nụ cười hồn hậu của bà, không ai có thể hình dung được rằng trước mặt mình là một Anh hùng Lao Động, một Thầy thuốc Nhân dân. Lặng lẽ thắp nén nhang cho người chồng đã quá cố, bà nói rằng, bà nguyện làm tất cả cho chị em phụ nữ, cho các hoàn cảnh khó khăn vì đó là lời thề mà bà đã hứa trước tổ chức, trước vong linh người chồng. Chặng đường đã qua trong cuộc đời, với bà đó là một hành trình cống hiến. Và nhiệt huyết chưa bao giờ tắt trong tâm trí và hành động của bà.

No comments:

Post a Comment