Friday, September 19, 2014

Phúc lợi xã hội Doanh nghiệp

GS TS Bùi Thế Cường, Phó Chủ tịch Hội Tư vấn HASCON, Nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ. Website hascon.net xin giới thiệu bài viết mới của GS Cường về một vấn đề rất hệ trọng đối với sự tồn vong của Doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay.

        Xã hội Việt Nam có truyền thống lâu đời và đa dạng về phúc lợi xã hội.  Trước hết và sâu xa nhất, là truyền thống phúc lợi xã hội của làng xã và dòng họ, một giá đỡ xã hội cho cá nhân và gia đình người Việt sống ở làng.  Truyền thống này cùng với lịch sử ẩn dưới hệ văn hoá Nho và Phật.  Tiếp theo, với sự xâm nhập của Công giáo từ thế kỷ XVI, truyền thống phúc lợi xã hội Thiên chúa giáo trở thành phần hữu cơ của đời sống Việt.  Vài chục năm hình thành nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp tạo nên khuôn khổ thiết chế và tư tưởng của phúc lợi xã hội phù hợp với hệ thống này.  Những truyền thống đã tác động vào tư tưởng và ứng xử phúc lợi của giới kinh doanh.  Chẳng hạn, suốt trong những năm 1990, người ta chứng kiến một làn sóng giúp đỡ và làm từ thiện của nhiều cơ sở sản xuất và thương mại tư nhân. 
        Một kinh nghiệm tốt của Việt Nam thời kỳ đầu của Đổi Mới đã được khẳng định:  Nhà nước dành khoản ngân sách lớn cho phúc lợi xã hội trong vài năm đầu tiên của cải cách.  Điều này đã giảm nhẹ những cú "sốc" xã hội, khi hàng loạt doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã giải thể hoặc đình đốn.  Trong những năm 1990, Nhà nước tích cực tạo ra những khuôn khổ phúc lợi xã hội mới cho các doanh nghiệp thông qua việc ban hành hàng loạt điều luật (Biểu đồ 1).
DOANH NGHIỆP TRONG THỜI CHUYỂN ĐỔI. 
       Bước sang thời kỳ cải cách, người dân được cởi mở hơn trong việc thành lập các doanh nghiệp tư nhân với những hình thái khác nhau.  Trong khu vực nhà nước, nhiều doanh nghiệp giải thể và bị giảm các nguồn lực bao cấp.  Tuy nhiên, vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp nhà nước cơ bản vẫn được nhấn mạnh, đồng thời cải tiến tương đối mạnh cơ chế sở hữu và quản lý.  Người ta chấp nhận ngày càng nhiều hơn nguyên lý cạnh tranh, mặc dù vẫn còn một số lĩnh vực được xác định là độc quyền của doanh nghiệp nhà nước.  Các doanh nghiệp được phép độc lập nhiều hơn trong hoạt động kinh doanh và quan hệ lao động.  Nhiều doanh nghiệp đã giảm bớt chế độ biên chế suốt đời, thay vào đó là chế độ hợp đồng lao động có thời hạn.  Nhà nước chuyển dần từ chế độ bao cấp tổng thể sang cơ chế doanh nghiệp và người lao động phải đóng góp rõ ràng vào bảo hiểm xã hội và y tế.  Về mặt thể chế cũng như văn hoá, khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.
LUẬT LAO ĐỘNG. 
        Ban hành vào năm 1994 với 198 điều khoản, bộ Luật lao động trở thành khuôn khổ điều chỉnh quan hệ lao động trong mọi thành phần kinh tế.  Dựa trên bộ luật này, khoảng 200 văn bản dưới luật ở cấp Bộ hoặc liên Bộ đã hình thành.  Bộ Luật lao động liên quan trực tiếp đến khoảng 6 triệu người lao động ở 250.000 doanh nghiệp, bao gồm 290.000 người làm việc trong 1.500 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 1,7 triệu người trong khoảng 6.000 doanh nghiệp nhà nước, và khoảng 4 triệu người trong các doanh nghiệp tư nhân.
        Tuy nhiên, một cuộc khảo sát của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội năm 2000 cho thấy 40% người được phỏng vấn biết rất ít hoặc không biết gì về bộ luật này.  Thông tin về bộ luật chỉ được biết đến chủ yếu ở các thành phố và doanh nghiệp lớn.  Các điều khoản của Luật lao động cũng như của các văn bản dưới luật hướng dẫn việc thực hiện bộ luật này được thực hiện chủ yếu chỉ trong các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.  Phần lớn doanh nghiệp vừa và nhỏ rất ít quan tâm đến Luật Lao động.  Người ta thường thấy những biểu hiện vi phạm Luật lao động cũng như những xung đột lao động trong một số doanh nghiệp có đầu tư của các nước hoặc vùng kinh tế Đông và Đông Nam Á.
         Năm 2000, các doanh nghiệp nước ngoài và liên doanh ở Khu chế xuất Tân Thuận cho nghỉ việc 7.000 người lao động hợp đồng ngắn hạn.  Phần lớn trong số họ đã không được nhận khoản trợ cấp nào khi rời khỏi doanh nghiệp. (Nguyễn Hà.  Lại nóng bỏng chuyện vi phạm Luật Lao động, Tạp chí Lao động & Xã hội, 7.2000).
CHÍNH SÁCH THUẾ DOANH NGHIỆP KHUYẾN KHÍCH PHÚC LỢI XÃ HỘI. 
         Chính sách thuế doanh nghiệp khuyến khích hoạt động phúc lợi của doanh nghiệp  bằng một loạt giải pháp, trong đó có việc không tính thuế những chi phí hoạt động góp phần nâng cao phúc lợi cho người lao động, như: 
  1. Chi phí cho bảo hiểm xã hội và y tế.
  1. Chi phí bảo hộ lao động.
  1. Chi phí cho hoạt động công đoàn và các đoàn thể quần chúng.
  1. Chi phí hỗ trợ lao động nữ.
  1. Chi cho bữa ăn giữa giờ.
  1. Chi phí cho đào tạo, giáo dục và chăm sóc sức khoẻ bên trong doanh nghiệp.
  1. Chi cho hoạt động hỗ trợ giáo dục và phúc lợi bên ngoài doanh nghiệp.
          Nhà nước có quy định miễn giảm thuế cho những khoản đầu tư vào các vùng khó khăn, như vùng sâu vùng xa và vùng có đồng bào dân tộc.  Các doanh nghiệp có tỷ lệ người khuyết tật trên một nửa sẽ được miễn giảm thuế.  Điều này cũng áp dụng cho doanh nghiệp của thương binh.  Doanh nghiệp cũng được hưởng chính sách miễn thuế cho hoạt động đào tạo dành cho một số nhóm xã hội yếm thế, như người khuyết tật, dân tộc thiểu số, trẻ em trong hoàn cảnh khó khăn.
PHÚC LỢI XÃ HỘI TRONG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC. 
        Từ đầu thập niên 1960 ở miền Bắc, khu vực doanh nghiệp nhà nước được ưu tiên phát triển, trong đó các khía cạnh phúc lợi xã hội của loại hình doanh nghiệp này đã được chú trọng đặc biệt.  Trong luật pháp và chính sách, doanh nghiệp nhà nước được xem là phải có trách nhiệm xã hội cao đối với cả bên trong lẫn bên ngoài doanh nghiệp.  Người ta có thể liệt kê ra một danh sách dài những hoạt động phúc lợi xã hội của doanh nghiệp nhà nước, như:
  1. Bảo hiểm xã hội và y tế.
  1. Đào tạo và đào tạo lại bên trong cũng như bên ngoài doanh nghiệp.
  1. Bữa cơm giữa giờ.
  1. Cơ sở khám chữa bệnh trong doanh nghiệp, có nhân viên y tế thường xuyên.
  1. Nhà trẻ và nhà mẫu giáo cho công nhân.
  1. Nhà ở cho người lao động.
  1. Tiền thưởng cho con em người lao động đạt kết quả học tập tốt.
  1. Các quy định hỗ trợ lao động nữ (thai sản, nghỉ đẻ, giờ làm việc ít hơn để chăm sóc con nhỏ,...).
  1. Xây dựng quỹ phúc lợi xã hội.
  1. Chính sách ưu tiên cho con em và thân nhân người lao động được vào làm trong doanh nghiệp.
  1. Các chi phí cho hoạt động văn nghệ, thể thao, giải trí và nghỉ mát.
  1. Các chi phí cho việc hiếu hỉ của người lao động và thân nhân họ.
  1. Chi phí cho hoạt động công tác xã hội bên ngoài doanh nghiệp.
  1. Chi phí bổ sung cho người về hưu (trợ cấp một lần, cấp nhà ở, cứu trợ xã hội, tiền thưởng,...).

BẢO HIỂM XÃ HỘI TRONG HỢP TÁC XÃ PHI NÔNG NGHIỆP.
         Song song với việc hình thành khu vực nhà nước, ngay từ đầu những năm 1960 Nhà nước quan tâm phát triển khu vực tập thể phi nông nghiệp, xem đây là một chính sách nhằm hạn chế sự phát triển của kinh tế tư nhân.  Ngay từ khi thành lập, các hợp tác xã phi nông nghiệp đã được thiết kế bao hàm những trách nhiệm phúc lợi xã hội cao cho xã viên, hướng theo mô hình khu vực nhà nước.
        Cuối những năm 1960 có một số sáng kiến ban đầu cho việc phát triển bảo hiểm xã hội ở khu vực này, như chế độ hưu trí, tai nạn lao động, ốm đau và thai sản.  Một số hợp tác xã bậc cao cũng thử nghiệm hình thức nhà trẻ và mẫu giáo, trạm xá và câu lạc bộ.
        Năm 1982 ban hành Quy chế bảo hiểm xã hội cho xã viên hợp tác xã phi nông nghiệp, theo đó xã viên được hưởng một số trợ cấp bảo hiểm xã hội giống khu vực nhà nước.  Quy chế này có hiệu lực với hơn nửa triệu xã viên ở các tỉnh phía Bắc.  Tuy nhiên, chế độ này đã bị quên lãng vào cuối những năm 1980 do khủng hoảng kinh tế.  Hiện nay, cả nước có khoảng hơn 3.000 hợp tác xã phi nông nghiệp với hơn 300.000 xã viên.  Ước tính khoảng 67% các hợp tác xã này có nhu cầu và khả năng tham gia hệ thống bảo hiểm xã hội.  Song, cho đến nay vẫn chưa phục hồi được chính sách nói trên cho khu vực này.
LAO ĐỘNG NỮ.
        Chính sách lao động nữ là một bộ phận hợp thành quan trọng của chính sách xã hội quốc gia ngay từ ngày đầu lập nước.  Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách cụ thể để hỗ trợ cho lao động nữ trong các doanh nghiệp.  Đã trở thành một truyền thống mạnh mẽ là doanh nghiệp nhà nước phải có chính sách và chế độ ưu tiên rõ ràng cho lao động nữ.  Điều này phần nào bị giảm nhẹ trong giai đoạn chuyển đổi sang kinh tế thị trường.  Hiện nay, nhà nước có chế độ giảm thuế cho các doanh nghiệp có 51% lao động nữ trở lên.  Có chế độ miễn giảm thuế cho các hoạt động đào tạo và tái đào tạo lao động nữ, cho chế độ lương cho phụ nữ và các thiết chế phúc lợi xã hội liên quan đến phụ nữ, như nhà trẻ và mẫu giáo, chăm sóc y tế và chế độ thai sản.
LAO ĐỘNG KHUYẾT TẬT TRONG DOANH NGHIỆP
        Ước tính Việt Nam có 2,8 triệu người khuyết tật trong độ tuổi lao động.  Tới 90% trong số họ chưa qua đào tạo nghề nghiệp chính quy.  Hàng năm, chỉ khoảng 3.500 người khuyết tật được đào tạo nghề, chủ yếu là nghề thủ công.  Với số lượng người khuyết tật  đông như vậy, song ước tính chỉ có khoảng 500 doanh nghiệp của thương binh và người khuyết tật, với hơn 40.000 lao động.  Thông thường, chỉ có trong các doanh nghiệp dành cho thương binh và người khuyết tật mới có hoạt động đào tạo nghề nghiệp riêng cho họ.
        Nhà nước đã ban hành một khuôn khổ tương đối đầy đủ các chính sách cho người khuyết tật, trong đó có việc đào tạo nghề và hoạt động việc làm.  Tuy nhiên, trong thực tế có rất ít hoạt động thực sự nhằm cải thiện điều kiện đào tạo, kiếm việc làm và lao động của người khuyết tật.  Rất ít doanh nghiệp, ngoại trừ các doanh nghiệp chuyên biệt, chịu nhận người khuyết tật vào làm việc và tạo điều kiện thuận lợi cho họ làm việc.  Vẫn chưa có một tổ chức nào ở cấp Bộ có trách nhiệm chuyên về quản lý các vấn đề lao động của người khuyết tật.
       Thành lập tháng 5.1999 từ 28 doanh nghiệp và hợp tác xã của thương binh và người tàn tật, với 1.251 lao động, Câu lạc bộ Các Doanh nghiệp Thương Bệnh binh và Người Tàn tật Hải Phòng nhằm hỗ trợ cho các hoạt động phúc lợi xã hội đối với thương binh và người tàn tật ở Hải Phòng.  Tuy nhiên, toàn thành phố có tới 27.000 người khuyết tật.   Thành phố cần thành lập nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh hơn cho người khuyết tật trong độ tuổi lao động, để họ có thể kiếm được việc làm. (Song Vũ. Câu Lạc Bộ Các Doanh nghiệp Thương Bệnh binh và Người Tàn tật Hải Phòng, Tạp chí Lao động & Xã hội 7.2000).
DOANH NGHIỆP THAM GIA CỨU TRỢ XÃ HỘI
       Việt Nam hàng năm chịu nhiều thiên tai, với những tổn thất lớn về người và của.  Chẳng hạn, trong năm 2000 ước tính đất nước này đã bị tổn thất khoảng 10.000 tỷ đồng do thiên tai.  Để cứu trợ cho nạn nhân thiên tai, nhà nước đã chi những khoản hỗ trợ khổng lồ hàng năm.  Việc cứu trợ của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đã hợp thành một bộ phận không nhỏ.  Nhà nước có những văn bản tạo khuôn khổ pháp lý rộng rãi cho sự tham gia cứu trợ của các doanh nghiệp và người dân.
        Hỗ trợ xã hội trong ngành giáo dục Vĩnh Long.  Từ năm 1994, ngành giáo dục tỉnh Vĩnh Long đã có quỹ hỗ trợ việc hiếu hỉ.  Mỗi đoàn viên Công đoàn đóng góp 1% mức lương cơ bản.  Đã có 9.454 công đoàn viên trong 404 tổ chức cơ sở của ngành giáo dục tỉnh tham gia.  Ngành cũng hình thành quỹ hiếu dành cho cha mẹ đẻ và cha mẹ bên vợ/chồng của công đoàn viên. Mỗi công đoàn viên nhận 1.000.000 đồng trợ giúp khi cha mẹ ruột hoặc cha mẹ vợ/chồng qua đời.  Quỹ cũng giúp đỡ cho những giáo viên đã về hưu gặp khó khăn.
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÚC LỢI XÃ HỘI DOANH NGHIỆP
  1. Khu vực phúc lợi xã hội nhà nước và không nhà nước chưa được cấu trúc lại về cơ bản.  Điều này khiến cho thiếu các khuôn khổ thích hợp mới, trong khi một loạt những tiếp cận và chính sách phúc lợi xã hội cũ vẫn còn tồn tại, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và hiệu quả kinh tế.  Chẳng hạn, thiếu những bảo vệ xã hội cần thiết cho người lao động trong khu vực tư nhân và người lao động "hợp đồng" trong doanh nghiệp nhà nước, trong khi lại "quá thừa" bảo vệ xã hội cho người lao động trong khu vực nhà nước.  Cũng có tình trạng quá ít chi phí xã hội trong khu vực tư nhân, trong khi tồn tại tình trạng các chi phí xã hội "quá cao" trong doanh nghiệp nhà nước.
  1. Trong khi một số trách nhiệm xã hội được các doanh nghiệp nhiệt tình thực hiện, thì lại có một số trách nhiệm xã hội doanh nghiệp không quan tâm.  Những trách nhiệm xã hội được doanh nghiệp quan tâm cao là cứu trợ thiên tai, xây dựng công trình, phụng dưỡng người có công với cách mạng và trợ giúp xã hội cho một số nhóm xã hội yếm thế.  Nhưng việc cải thiện điều kiện và quan hệ lao động bên trong doanh nghiệp lại ít được chú trọng và ủng hộ.
  1. Các doanh nghiệp nhà nước và có vốn đầu tư nước ngoài tỏ ra quan tâm phát triển hoạt động phúc lợi xã hội hơn doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa.
  1. Có một sự tương phản khá rõ giữa các văn kiện luật với những hướng dẫn dưới luật ở cấp Bộ và địa phương.  Các văn kiện luật được xây dựng bởi Quốc hội và Chính phủ có xu hướng đưa ra một khuôn khổ mở, năng động cho hoạt động của doanh nghiệp và người dân.  Trong khi đó, các văn bản hướng dẫn dưới luật của cấp Bộ và địa phương lại có xu hướng thu hẹp không gian hoạt động.

Biểu đồ 1. Một mẫu của tiến triển khuôn khổ chính sách và luật pháp liên quan đến phúc lợi xã hội doanh nghiệp Việt Nam
Năm
Luật/chính sách
Nội dung
1980Hiến phápBảo hiểm xã hội cho cán bộ cong nhân viên khu vực nhà nước
1985Nghị định 236/HĐBTĐiều chỉnh chế độ bảo hiểm xã hội và phúc lợi xã hội
1989Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dânKhuôn khổ luật pháp và chính sách cho y tế
1992Hiến phápNhà nước và xã hội trợ giúp cho người già, người khuyết tật, và trẻ mồ côi
1992Chỉ thị 15/TTgChính sách cho các doanh nghiệp có người tàn tật
1994Luật lao độngXác định khuôn khổ luật pháp cho phúc lợi của người lao động trong doanh nghiệp
1994Nghị định 196/CPHướng dẫn thực hiện Luật lao động
1994Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạngKhuôn khổ luật pháp và chính sách cho người có công với cách mạng
1995Nghị định 19/CPXây dựng bảo hiểm xã hội Việt Nam
1995Nghị định 81/CPChính sách cho người khuyết tật trong doanh nghiệp, cho doanh nghiệp của và có người khuyết tật.  Thành lập các Quỹ việc làm địa phương cho người khuyết tật.
1998Pháp lệnh người tàn tậtKhuôn khổ luật pháp và chính sách cho người tàn tật
1998Nghị định 58/1998/NĐ-CPXây dựng bảo hiểm y tế Việt Nam
1998Nghị định 30/1998/NĐ-CPHướng dẫn thực hiện Pháp lệnh thuế doanh nghiệp
1999Luật Doanh nghiệpKhuôn khổ luật pháp và chính sách cho doanh nghiệp
2000Nghị định 07/2000/NĐ-CPChính sách cứu trợ xã hội
2000Thông tư 09/2000/TT-BYTChính sách chăm sóc y tế cho người lao động trong doanh nghiệp vừa và nhỏ

TÀI LIỆU THAM KHẢO
  1. Bích Lộc/Tuấn Cường.  Chuyện ở Nhà máy Mang Tên 8-3.  Trong: Tạp chí Lao động và Xã hội, 3.2000.
  1. Bích Ngọc.  Vinamilk: Sản xuất Giỏi, Làm Công tác Xã hội Tốt.  Trong: Tạp chí Lao động và Xã hội, 1.2000.
  1. Bùi Đức Huyên.  Vì Người Lao động Sông Đà.  Trong: Tạp chí Lao động và Xã hội, 1.2000.
  1. Đàm Hữu Đắc.  Xã hội hoá các Hoạt động Công tác Xã hội.  Trong: Lao động Xã hội. 24.9.2000.
  1. Đặng Quang Điều.  Chuẩn bị Tốt cho Doanh nghiệp Nhà nước Hội nhập Quốc tế - Biện pháp Bảo đảm Việc làm cho Người Lao động.  Trong: Tạp chí Lao động và Xã hội, 1.2000.
  1. Đức Tùng.  Công ty Xây dựng số 2 Yên Bái: Vì Việc làm và Đời sống của Người Lao động.  Trong: Tạp chí Lao động và Xã hội, 3.2000.
  1. Lê Đăng Doanh/Nguyễn Minh Tú (Chủ biên).  Khung Chính sách Xã hội trong Quá trình Chuyển đổi sang Kinh tế Thị trường.  Nhà xuất bản Thống kê.  Hà Nội: 1999.
  1. Nguyễn Minh Tú (Chủ biên).  Tác động Xã hội của Cải cách Kinh tế tới Các Doanh nghiệp ở Việt Nam.  Nhà xuất bản Lao động.  Hà Nội: 1996.
  1. Nguyễn Nam Mộc.  Công đoàn Tổng Công ty Điện lực Việt Nam Chăm lo và Bảo vệ Lợi ích Người Lao động.  Trong: Tạp chí Lao động và Xã hội, 5.2000.
10. Thảo Lan.  Trung tâm Dịch vụ Dạy nghề Lao động Nữ Đoàn Thị Điểm Gắn Dạy nghề với Sản xuất Tạo Việc làm.  Trong: Tạp chí Lao động và Xã hội, 3.2000.
11. Trần Bích Lộc.  4 Phong trào ở Bưu điện Thành phố Hồ Chí Minh.  Trong: Tạp chí Lao động và Xã hội, 1.2000.
CHÚ THÍCH

Tham luận tại Hội thảo quốc tế "Vai trò và Chức năng của Doanh nghiệp trong Phúc lợi Xã hội: Vấn đề, Sự Đáp ứng và Những Thách thức", do Đại học Công tác Xã hội Nhật Bản tổ chức tại Tokyo, 14-17 tháng 11, 2000. Đã in trong: Bùi Thế Cường. 2002. Chính sách xã hội và công tác xã hội ở Việt Nam thập niên 90. Hà Nội: Nxb Khoa học xã hội. Trang 140-154.

No comments:

Post a Comment