TS Nguyễn Bách Phúc
Chủ tịch Hội Tư vấn Khoa học Công nghệ và Quản lý HASCON
Viện trưởng Viện Điện – Điện tử - Tin học EEI
Viện trưởng Viện Điện – Điện tử - Tin học EEI
Ngày 22/03/2017, chúng tôi đăng lên FB “Nghệ Tĩnh” bài “Ghi chép nhỏ về Đền Chùa ở xã Sơn Tân, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh”.
Ngày 23/03/2017, thầy Mai Trọng Nhân đã đăng bình luận như sau:
“Theo tôi, do mất chữ hoặc do sai từ gốc mà có thể mất chuẩn.
- Ví dụ Cửu phẩm là bậc lương cuối cùng ngày xưa, sao lại đặt tên cho đền?
- Còn theo văn đối ngày xưa có lẽ phải là:
"Trúc từ chính khí thiên niện trụ".
- Nhà thánh là trường dạy học trong hệ thống giáo dục ngày xưa trong đó có gian thờ tổ nghành giáo dục là Khổng Tử để cho môn sinh rèn đức "tôn sư trọng đạo".
- Nhà Thánh không nhất thiết đặt tại huyện lỵ mà đặt nơi lắm thầy nhiều trò. Ví dụ xã Tùng Ảnh không đặt huyện lỵ nhưng có tới 2 nhà Thánh tại Yên Nội và châu Trung.”
- Ví dụ Cửu phẩm là bậc lương cuối cùng ngày xưa, sao lại đặt tên cho đền?
- Còn theo văn đối ngày xưa có lẽ phải là:
"Trúc từ chính khí thiên niện trụ".
- Nhà thánh là trường dạy học trong hệ thống giáo dục ngày xưa trong đó có gian thờ tổ nghành giáo dục là Khổng Tử để cho môn sinh rèn đức "tôn sư trọng đạo".
- Nhà Thánh không nhất thiết đặt tại huyện lỵ mà đặt nơi lắm thầy nhiều trò. Ví dụ xã Tùng Ảnh không đặt huyện lỵ nhưng có tới 2 nhà Thánh tại Yên Nội và châu Trung.”
Chúng tôi rất cảm ơn và hoan nghênh bài bình luận thẳng thắn của Thầy Nhân.
Chúng tôi thấy những vấn đề thầy Nhân nêu ra đều là những vấn đề cốt lõi, liên quan đến nhận thức của nhiều người, nên chúng tôi viết thành một bài trả lời, đăng lên FB, để mọi người tham khảo.
Xin phép trả lời vắn tắt như sau:
CÂU CHUYỆN 1:
Thầy Nhân viết: “Cửu phẩm là bậc lương cuối cùng ngày xưa, sao lại đặt tên cho đền?”
Thầy Nhân viết: “Cửu phẩm là bậc lương cuối cùng ngày xưa, sao lại đặt tên cho đền?”
Trả lời 1-1: “Cửu phẩm” không bao giờ là “bậc lương”.
- Ngày xưa Nhà nước phong kiến phong Hàm cho cá nhân, để đánh giá công lao đóng góp cho xã hội. Hàm bậc cao gọi là “Tước”, Hàm bậc thấp gọi là “Phẩm”.
- “Tước” chia làm 6 bậc: Vương, Công, Hầu, Bá, Tử, Nam (riêng tước Công thì chia thành hai bậc, Quốc Công và Quận Công, Quốc Công cao hơn Quận Công).
- “Phẩm” chia làm chin bậc, từ Nhất Phẩm đến Cửu Phẩm
- Mỗi bậc Phẩm lại chia ra 2 cấp: Văn giai và Võ giai, trong đó Văn Giai cao hơn Võ giai. Như vậy là có tới 18 cấp bậc Phẩm.
- 18 cấp bậc này còn chia ra thành 2 hạng, Chánh (chính thức), và Tòng (theo). Như vậy có tới 36 cấp bậc của Phẩm
- Thứ tự cao thấp là: 1 Chánh Nhất Phẩm Văn giai, 2 Chánh Nhất Phẩm Võ giai, 3 Tòng Nhất Phẩm Văn giai, 4 Tòng Nhất Phẩm Võ giai, vân vân, 33 Chánh Cửu Phẩm Văn giai, 34. Chánh Cửu Phẩm Võ giai, 35. Tòng Cửu Phẩm Văn giai, 36. Tòng Cửu Phẩm Võ giai
- “Tước” chia làm 6 bậc: Vương, Công, Hầu, Bá, Tử, Nam (riêng tước Công thì chia thành hai bậc, Quốc Công và Quận Công, Quốc Công cao hơn Quận Công).
- “Phẩm” chia làm chin bậc, từ Nhất Phẩm đến Cửu Phẩm
- Mỗi bậc Phẩm lại chia ra 2 cấp: Văn giai và Võ giai, trong đó Văn Giai cao hơn Võ giai. Như vậy là có tới 18 cấp bậc Phẩm.
- 18 cấp bậc này còn chia ra thành 2 hạng, Chánh (chính thức), và Tòng (theo). Như vậy có tới 36 cấp bậc của Phẩm
- Thứ tự cao thấp là: 1 Chánh Nhất Phẩm Văn giai, 2 Chánh Nhất Phẩm Võ giai, 3 Tòng Nhất Phẩm Văn giai, 4 Tòng Nhất Phẩm Võ giai, vân vân, 33 Chánh Cửu Phẩm Văn giai, 34. Chánh Cửu Phẩm Võ giai, 35. Tòng Cửu Phẩm Văn giai, 36. Tòng Cửu Phẩm Võ giai
Trả lời 1-2: Chữ “Cửu Phẩm” mang ý nghĩa riêng của Đạo Phật
- Chữ “Cửu Phẩm” trong Kinh Phật mang ý nghĩa rất cao siêu, chứ hoàn toàn không phải là thứ bậc hạng bét trong hệ thống Phẩm Hàm ngày xưa
- Đã lâu lắm rồi, chúng tôi có lần đọc Kinh Phật, nay còn nhớ mang máng rằng, Phật giáo phân chia con người chúng ta (chúng sinh) theo chin đặc điểm, gọi là chin “Phẩm”. Nhà Phật nói “cửu Phẩm” với ý nghĩa là “gồm cả 9 cái Phẩm”, tức là toàn bộ chúng sinh, chứ không như trong hệ thống Phẩm Hàm, “Cửu Phẩm” là “bậc thứ 9 của Phẩm”
- Đã lâu lắm rồi, chúng tôi có lần đọc Kinh Phật, nay còn nhớ mang máng rằng, Phật giáo phân chia con người chúng ta (chúng sinh) theo chin đặc điểm, gọi là chin “Phẩm”. Nhà Phật nói “cửu Phẩm” với ý nghĩa là “gồm cả 9 cái Phẩm”, tức là toàn bộ chúng sinh, chứ không như trong hệ thống Phẩm Hàm, “Cửu Phẩm” là “bậc thứ 9 của Phẩm”
- Thầy Nhân có thể lên Google tìm kiếm, sẽ thấy ngay.
- Ở Sơn Tân hiện nay có một người hiểu Đạo Phật sâu sắc nhất, là PGS TS Trần Xuân Sinh, xóm Cống. Thầy Nhân chỉ cần Alô cho Thấy Sinh là được giải đáp chính xác, khỏi phải lên Mạng.
Trả lời 1-3: Không có “Đền” Cửu Phẩm như Thầy Nhân nói, mà chỉ có “Chùa” Cửu Phẩm
- Thầy Nhân viết: “Cửu phẩm…., sao lại đặt tên cho đền?”:
- Có lẽ Tầy Nhân không đọc muc 6 trong bài viết trước của chúng tôi, nên Thầy không phân biệt “Đền” với “Chùa”:
- Có lẽ Tầy Nhân không đọc muc 6 trong bài viết trước của chúng tôi, nên Thầy không phân biệt “Đền” với “Chùa”:
" Mục 6: Một đôi điều lưu ý:
6.1. Tên gọi các nơi thờ phụng:
1. “Chùa”: Là nơi thờ Phật của các nhà sư và của những người theo
đạo Phật, chữ Hán là “Tự” “寺”
2. “Đền”: Là nơi thờ Thần, thờ Thánh. Có nhiều loại Thần, Thánh,
hoặc theo tưởng tượng của mọi người, như Thần Núi, Thần
Sông, Thần Sấm, Thần Sét, hoặc những người có công tích rất
lớn được Vua Chúa phong tặng danh hiệu “Thần”, “Thánh”. “Đền”
chữ Hán dùng từ “Miếu” "
6.1. Tên gọi các nơi thờ phụng:
1. “Chùa”: Là nơi thờ Phật của các nhà sư và của những người theo
đạo Phật, chữ Hán là “Tự” “寺”
2. “Đền”: Là nơi thờ Thần, thờ Thánh. Có nhiều loại Thần, Thánh,
hoặc theo tưởng tượng của mọi người, như Thần Núi, Thần
Sông, Thần Sấm, Thần Sét, hoặc những người có công tích rất
lớn được Vua Chúa phong tặng danh hiệu “Thần”, “Thánh”. “Đền”
chữ Hán dùng từ “Miếu” "
Trả lời 1- 4: Chùa Cửu Phẩm không phải chỉ có ở Sơn Tân,
Thầy Nhân có thể tham khảo bài dưới đây, theo đường link:
“Chùa Cửu Phẩm, công trình kiến trúc Phật giáo nghìn năm
11.08.2010
Chùa Cửu Phẩm hay chùa Đồng Ngọ, thuộc thôn Cập Nhất, xã Tiền Tiến (Thanh Hà), nơi từng là trung tâm Phật giáo lớn của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử và là ngôi chùa Phật giáo cổ nhất ở tỉnh Hải Dương hiện nay.
Căn cứ vào văn bia còn ghi lại, chùa Cửu Phẩm được xây dựng vào thời nhà Đinh, theo sắc chỉ vua ban năm 971. Trải qua thời Tiền Lê, Lý, Trần, đến thế kỷ thế kỷ 17, sự tích của chùa gắn liền với tên tuổi hòa thượng Chân Nguyên.”
Căn cứ vào văn bia còn ghi lại, chùa Cửu Phẩm được xây dựng vào thời nhà Đinh, theo sắc chỉ vua ban năm 971. Trải qua thời Tiền Lê, Lý, Trần, đến thế kỷ thế kỷ 17, sự tích của chùa gắn liền với tên tuổi hòa thượng Chân Nguyên.”
CÂU CHUYỆN 2:
Thầy Nhân viết: “Còn theo văn đối ngày xưa có lẽ phải là: "Trúc từ chính khí thiên niện trụ"”.
Trả lời 2-1: Câu đối của Đền Trúc là của các bậc Đại Nho, các bậc Đại Khoa, các bậc Tiến sĩ ngày xưa.
“Trúc từ chỉnh khí tôn thiên trụ
Liên xã cao môn trấn khôn duy”
“竹祠整气尊天柱
蓮社皋門鎮坤维”
Liên xã cao môn trấn khôn duy”
“竹祠整气尊天柱
蓮社皋門鎮坤维”
Thầy Nhân sửa câu trên thành "Trúc từ chính khí thiên niện trụ”.
Trả lời 2-2: Những người hiểu biết chút ít về câu đối đều ghi nhớ bài học “vỡ lòng” về câu đối là:
- “Đối” là “đối xứng” chứ không phải “đối nghịch”, câu đối là một cặp “Biền ngẫu”, nghĩa là một cặp “kết hợp song song”.
- Các từ của câu trên và câu dưới, dù ở bất kỳ vị trí nào, đều phải cùng từ loại (danh từ, động từ, tính từ, trạng từ . ..)
- Các từ của câu trên và câu dưới, dù ở bất kỳ vị trí nào, đều phải cùng có vai trò ngữ pháp giống nhau (chủ ngữ, vị ngữ, tân ngữ …)
- Một số vị trí cố định trong câu, từ của câu trên phải đối nghịch “bằng, trắc” với câu dưới.
Câu đối của Đền Trúc đã rất chuẩn theo những nguyên tắc này.
- “Đối” là “đối xứng” chứ không phải “đối nghịch”, câu đối là một cặp “Biền ngẫu”, nghĩa là một cặp “kết hợp song song”.
- Các từ của câu trên và câu dưới, dù ở bất kỳ vị trí nào, đều phải cùng từ loại (danh từ, động từ, tính từ, trạng từ . ..)
- Các từ của câu trên và câu dưới, dù ở bất kỳ vị trí nào, đều phải cùng có vai trò ngữ pháp giống nhau (chủ ngữ, vị ngữ, tân ngữ …)
- Một số vị trí cố định trong câu, từ của câu trên phải đối nghịch “bằng, trắc” với câu dưới.
Câu đối của Đền Trúc đã rất chuẩn theo những nguyên tắc này.
Trả lời 2-3: Nếu sửa 3 chữ “tôn thiên trụ” của câu trên thành “thiên niên trụ” như ý Thầy Nhân, thì sẽ “tréo ngoe”, sẽ bất thành câu đối.
- Tại Đền Trúc, 3 chữ “tôn thiên trụ” của câu trên hoàn toàn “kết hợp song song” với 3 chữ “trấn khôn duy” của câu dưới,
- chữ “tôn” (nghĩa là: giữ tôn nghiêm) của câu trên và chữ “trấn” (nghĩa là: trấn giữ) của câu dưới, đều là động từ, làm vị ngữ cho câu. Còn chữ “thiên” của Thầy Nhân là số từ (nghĩa là:1 nghìn), không bao giờ có thể làm vị ngữ được.
- “thiên trụ” của câu trên và “khôn duy” của câu dưới đều là “nhóm từ” làm tân ngữ cho câu, còn “niên trụ” của Thầy Nhân không thể làm thành 1 nhóm từ, và không thể làm tân ngữ.
-
CÂU CHUYỆN 3:
- Tại Đền Trúc, 3 chữ “tôn thiên trụ” của câu trên hoàn toàn “kết hợp song song” với 3 chữ “trấn khôn duy” của câu dưới,
- chữ “tôn” (nghĩa là: giữ tôn nghiêm) của câu trên và chữ “trấn” (nghĩa là: trấn giữ) của câu dưới, đều là động từ, làm vị ngữ cho câu. Còn chữ “thiên” của Thầy Nhân là số từ (nghĩa là:1 nghìn), không bao giờ có thể làm vị ngữ được.
- “thiên trụ” của câu trên và “khôn duy” của câu dưới đều là “nhóm từ” làm tân ngữ cho câu, còn “niên trụ” của Thầy Nhân không thể làm thành 1 nhóm từ, và không thể làm tân ngữ.
-
CÂU CHUYỆN 3:
Thầy Nhân viết: “Nhà thánh là trường dạy học trong hệ thống giáo dục ngày xưa trong đó có gian thờ tổ nghành giáo dục là Khổng Tử để cho môn sinh rèn đức "tôn sư trọng đạo".
Thực tình từ bé tới giờ tôi chưa thấy ai nói và viết như Thầy Nhân.
Thực tình từ bé tới giờ tôi chưa thấy ai nói và viết như Thầy Nhân.
Trả lời 3-1: Nhà thánh là Miếu thờ Thánh Khổng Tử,
- “Nhà Thánh” là nơi thờ Khổng Tử. Trong chế độ phong kiến ở Việt Nam và Trung Quốc, từ Trung ương, tỉnh, huyện, đến tận xã đều phải có nhà thờ Khổng Tử. Nhà thờ Khổng Tử thường mang các tên: “Văn Miếu”, “Khổng Miếu”, “Nhà Thánh”.
- Nhà thờ Khổng Tử ở Kinh đô và ở tỉnh lỵ gọi là Văn Miếu, như Văn Miếu Hà Nội, Văn Miếu Huế, Văn Miếu ở Tỉnh thành Nghệ An, Văn Miếu ở Tỉnh thành Hà Tĩnh.
- Nhà thờ Khổng Tử ở huyện lỵ gọi là “Nhà Thánh huyện”.
- Nhà thờ Khổng Tử ở Xã gọi là “Nhà Thánh xã”.
- Tại sao người Việt Nam gọi Nhà thờ Khổng Tử là “Nhà Thánh”?
Xuất phát từ chữ “Khổng Miếu” của Trung Quốc, trong đó “Miếu” là “Nhà thờ Thánh,Thần”, “Khổng” là Ông Thánh Khổng Tử. Người TQ, VN, Triều Tiên, Nhật Bản xưa tôn sùng Ông Khổng Tử là bậc Thánh, cao hơn bâc Thần. Cho nên “Khổng Miếu”, nói đầy đủ phải là “Nhà thờ Đức Thánh Khổng Tử”, hơi dài, nên nói tắt là “Nhà Thánh”.
- Nhà thờ Khổng Tử ở Kinh đô và ở tỉnh lỵ gọi là Văn Miếu, như Văn Miếu Hà Nội, Văn Miếu Huế, Văn Miếu ở Tỉnh thành Nghệ An, Văn Miếu ở Tỉnh thành Hà Tĩnh.
- Nhà thờ Khổng Tử ở huyện lỵ gọi là “Nhà Thánh huyện”.
- Nhà thờ Khổng Tử ở Xã gọi là “Nhà Thánh xã”.
- Tại sao người Việt Nam gọi Nhà thờ Khổng Tử là “Nhà Thánh”?
Xuất phát từ chữ “Khổng Miếu” của Trung Quốc, trong đó “Miếu” là “Nhà thờ Thánh,Thần”, “Khổng” là Ông Thánh Khổng Tử. Người TQ, VN, Triều Tiên, Nhật Bản xưa tôn sùng Ông Khổng Tử là bậc Thánh, cao hơn bâc Thần. Cho nên “Khổng Miếu”, nói đầy đủ phải là “Nhà thờ Đức Thánh Khổng Tử”, hơi dài, nên nói tắt là “Nhà Thánh”.
Trả lời 3-2: Nhà Thánh không bao giờ, không ở đâu, là trường dạy học.
- Nhà thờ và Trường học là 2 công trình hoàn toàn khác nhau với 2 chức năng khác nhau, không thể lẫn lộn.
- Chẳng hạn, với Đạo Thiên Chúa, Nhà thờ là nơi thờ Chúa Giêsu, còn Trường Dòng là nơi dạy đạo, không nằm trong Nhà thờ.
- Với Đạo Phât, Chùa là Nhà thờ Đức Phật, còn các trường Phật học nằm chỗ khác, không nằm trong Chùa.
- Với Đạo Nho (Đạo Khổng), Văn Miếu và Nhà Thánh là Nhà Thờ Khổng Tử. Còn Trường dạy Đạo Nho ở cấp trung ương gọi là Quốc Tử Giám. ở cấp tỉnh gọi là “trường Tỉnh”, ở cấp Phủ gọi là “trường Phủ”, ở cấp huyện gọi là “trường Huyện”, ở cấp xã hoàn toàn không có Trường nào.
- Tại Thủ đô Thăng Long, Quốc Tử Giám nằm phia sau Văn Miếu, Quốc Tử Giám là ngôi trường nội trú, có đầy đủ các điều kiện cho việc học hành và ăn ở sinh hoạt, tương tự như các trường nội trú ngày nay. Quốc Tử Giám Hà Nội được xây dựng từ đầu Triều Lý, hoạt động và phát triển suốt 800 năm, cho đến khi Nhà Nguyễn chọn Huế làm Thủ đô. Sau khi lên ngôi năm 1802, ngay năm 1803 Vua Gia Long xây Văn Miếu thờ Khổng Tử ở Huế, phía sau Chùa Thiên Mụ. Mấy năm sau, xây Trường Quốc Tử Giám, cũng ở gần Văn Miếu.
- Các “trường Tỉnh”, “trường Phủ”, “trường Huyện” nói chung được đặt ở Lỵ Sở, gần Nhà thờ Khổng Tử, nhưng tách bạch hoàn toàn với Nhà thờ Khổng Tử.
- Số lượng các loại Trường này không nhiều. Ví dụ, ở 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh chỉ có 2 Trường Tỉnh (ở 2 Tỉnh lỵ), 3 Trường Phủ (Anh Sơn, Diễn Châu, Đức Thọ) và 3 Trường Huyện (Quỳnh Lưu, Can Lộc và Nghi Xuân).
- Hệ thống Trường học này chấm dứt hoạt động vào năm 1919, khi Nhà Nguyễn từ bỏ Nho học chuyển sang Tây học, chấm dứt chế độ Thi Hương (lấy Tú tài, Cử nhân) và Thi Hội (lấy Phó Bảng, Tiến Sĩ)
- Chẳng hạn, với Đạo Thiên Chúa, Nhà thờ là nơi thờ Chúa Giêsu, còn Trường Dòng là nơi dạy đạo, không nằm trong Nhà thờ.
- Với Đạo Phât, Chùa là Nhà thờ Đức Phật, còn các trường Phật học nằm chỗ khác, không nằm trong Chùa.
- Với Đạo Nho (Đạo Khổng), Văn Miếu và Nhà Thánh là Nhà Thờ Khổng Tử. Còn Trường dạy Đạo Nho ở cấp trung ương gọi là Quốc Tử Giám. ở cấp tỉnh gọi là “trường Tỉnh”, ở cấp Phủ gọi là “trường Phủ”, ở cấp huyện gọi là “trường Huyện”, ở cấp xã hoàn toàn không có Trường nào.
- Tại Thủ đô Thăng Long, Quốc Tử Giám nằm phia sau Văn Miếu, Quốc Tử Giám là ngôi trường nội trú, có đầy đủ các điều kiện cho việc học hành và ăn ở sinh hoạt, tương tự như các trường nội trú ngày nay. Quốc Tử Giám Hà Nội được xây dựng từ đầu Triều Lý, hoạt động và phát triển suốt 800 năm, cho đến khi Nhà Nguyễn chọn Huế làm Thủ đô. Sau khi lên ngôi năm 1802, ngay năm 1803 Vua Gia Long xây Văn Miếu thờ Khổng Tử ở Huế, phía sau Chùa Thiên Mụ. Mấy năm sau, xây Trường Quốc Tử Giám, cũng ở gần Văn Miếu.
- Các “trường Tỉnh”, “trường Phủ”, “trường Huyện” nói chung được đặt ở Lỵ Sở, gần Nhà thờ Khổng Tử, nhưng tách bạch hoàn toàn với Nhà thờ Khổng Tử.
- Số lượng các loại Trường này không nhiều. Ví dụ, ở 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh chỉ có 2 Trường Tỉnh (ở 2 Tỉnh lỵ), 3 Trường Phủ (Anh Sơn, Diễn Châu, Đức Thọ) và 3 Trường Huyện (Quỳnh Lưu, Can Lộc và Nghi Xuân).
- Hệ thống Trường học này chấm dứt hoạt động vào năm 1919, khi Nhà Nguyễn từ bỏ Nho học chuyển sang Tây học, chấm dứt chế độ Thi Hương (lấy Tú tài, Cử nhân) và Thi Hội (lấy Phó Bảng, Tiến Sĩ)
Trả lời 3-3: Ở Làng Xã Việt Nam ngày xưa, không có Trường, và học trò không học ở Nhà Thánh như Thầy Nhân nói.
- Học trò nhà quê học tại nhà riêng của các Thầy Đồ. Thường thì Thầy Đồ ngồi xếp bằng trên bộ phản, với roi mây dài, còn học trò thì ngồi bệt dưới sàn nhà nghe giảng, nằm bò trên mặt đất viết chữ.
- Sau năm bảy năm học theo kiểu này, những học trò giỏi có triển vọng, sẽ thi vào Trường Huyện, Trường Phủ, hoặc sẽ tìm đến nhà riêng của các bậc khoa bảng đã hưu trí, để được kèm cặp nâng cao trình độ, để có thể đi thi Hương.
- Sau năm bảy năm học theo kiểu này, những học trò giỏi có triển vọng, sẽ thi vào Trường Huyện, Trường Phủ, hoặc sẽ tìm đến nhà riêng của các bậc khoa bảng đã hưu trí, để được kèm cặp nâng cao trình độ, để có thể đi thi Hương.
- Cuối Thế kỷ XIX, người Pháp mới bắt đầu thành lập hệ thống nhà trường, tương tự như hệ thống trường phổ thông ngày nay, ở Xứ Nam Kỳ Thuộc Địa, sau đó, đầu thế kỷ XX ở Xứ Bắc Kỳ Bảo Hộ và Trung Kỳ Tự Trị. Học sinh cấp I học bằng tiếng Việt và tiếng Pháp, hết nửa cấp I thi Bằng Sơ học Yếu lược, thi cử bằng tiếng Pháp, sau đó học toàn bằng tiếng Pháp, cuối cấp I thi Bằng Primair, thi cử bằng tiếng Pháp. Học sinh cấp II học bằng tiếng Pháp, cuối cấp II thi lấy Bằng Thành Chung. Học sinh cấp III học bằng tiếng Pháp, cuối cấp III thi lấy Bằng Tú Tài.
Trong Hệ thống giáo dục này, chữ Hán được dạy cho học sinh cấp I và cấp II, như một môn ngoại ngữ.
-
Trả lời 3-4: Khổng Tử không phải là “tổ nghành (ngành) giáo dục” như Thầy Nhân phong tặng.
Trong Hệ thống giáo dục này, chữ Hán được dạy cho học sinh cấp I và cấp II, như một môn ngoại ngữ.
-
Trả lời 3-4: Khổng Tử không phải là “tổ nghành (ngành) giáo dục” như Thầy Nhân phong tặng.
- Khổng Tử là Ông Tổ của Đạo Nho, hay Đạo Khổng, giống như Đức Phật và Đức Giesu của Đạo Phật và của Đạo Chúa.
- Đạo Khổng là một “Đạo”, tương tự như Đạo Phật và Đạo Chúa, cũng tương tự như “Chủ nghĩa” ngày nay khi chúng ta “kiêng” chữ “Đạo”. “Đạo” hoặc “Chủ nghĩa” là một hệ thồng triết học, chính trị, tư tưởng, văn hóa, pháp luật, giáo dục, đạo đức. vân vân.
- Hầu hết chính quyền nhà nước trên toàn thế giới xưa nay đều dựa vào một “Đạo”, một “Chủ nghĩa” để xây dựng bộ máy Nhà nước và tổ chức cai trị.
- Đạo Khổng đã thống trị 4 nước Trung Quốc, Nhật Bản, VN và Triều Tiên suốt 2500 năm lịch sử.
- Đạo Khổng bị “ra rìa” đầu tiên ở VN và Triều Tiên năm 1945, ở TQ năm 1049.
- Riêng TQ, 5 năm nay khôi phục Đạo Khổng, lập các Viện Không Tử khắp nước, khắp thế giới, tất cả các trường Đại học giảng dạy Triêt học và tư tưởng của Đạo Khổng cho sinh viên.
- Tóm lại, Thầy Nhân phong tặng Khổng Tử chức danh “tổ nghành (ngành) giáo dục” là đã hạ cấp Khổng Tử xuống 5, 10 bậc, từ “Đức Thánh” xuống còn “Ông Thầy”!
- Đạo Khổng là một “Đạo”, tương tự như Đạo Phật và Đạo Chúa, cũng tương tự như “Chủ nghĩa” ngày nay khi chúng ta “kiêng” chữ “Đạo”. “Đạo” hoặc “Chủ nghĩa” là một hệ thồng triết học, chính trị, tư tưởng, văn hóa, pháp luật, giáo dục, đạo đức. vân vân.
- Hầu hết chính quyền nhà nước trên toàn thế giới xưa nay đều dựa vào một “Đạo”, một “Chủ nghĩa” để xây dựng bộ máy Nhà nước và tổ chức cai trị.
- Đạo Khổng đã thống trị 4 nước Trung Quốc, Nhật Bản, VN và Triều Tiên suốt 2500 năm lịch sử.
- Đạo Khổng bị “ra rìa” đầu tiên ở VN và Triều Tiên năm 1945, ở TQ năm 1049.
- Riêng TQ, 5 năm nay khôi phục Đạo Khổng, lập các Viện Không Tử khắp nước, khắp thế giới, tất cả các trường Đại học giảng dạy Triêt học và tư tưởng của Đạo Khổng cho sinh viên.
- Tóm lại, Thầy Nhân phong tặng Khổng Tử chức danh “tổ nghành (ngành) giáo dục” là đã hạ cấp Khổng Tử xuống 5, 10 bậc, từ “Đức Thánh” xuống còn “Ông Thầy”!
Trả lời 3-5: Nhà Thánh là để cho ai thờ phụng Khổng Tử?
- Nhà Thánh là để cho Quan chức Nhà nước thờ phụng Khổng Tử, từ vua chúa, các đại thần ở trung ương đến các quan chức hàng tỉnh, hang huyện, hang xã,
- Nhà Thánh là chốn tôn nghiêm, chỉ mở cửa vào những dịp tế cúng quan trọng, tham dự lễ cúng tế đó là các quan chức đương kim, các quan chức đã về hưu, các vị từng đỗ đạt cao, cử nhân, tiến sĩ.
- Nhà Thánh không bao giờ là nơi “để cho môn sinh rèn đức "tôn sư trọng đạo"”, như thầy Nhân nói.
- Nhà Thánh là chốn tôn nghiêm, chỉ mở cửa vào những dịp tế cúng quan trọng, tham dự lễ cúng tế đó là các quan chức đương kim, các quan chức đã về hưu, các vị từng đỗ đạt cao, cử nhân, tiến sĩ.
- Nhà Thánh không bao giờ là nơi “để cho môn sinh rèn đức "tôn sư trọng đạo"”, như thầy Nhân nói.
CÂU CHUYỆN 4:
Thầy Nhân nói: “Nhà Thánh không nhất thiết đặt tại huyện lỵ mà đặt nơi lắm thầy nhiều trò. Ví dụ xã Tùng Ảnh không đặt huyện lỵ nhưng có tới 2 nhà Thánh tại Yên Nội và châu Trung.”
Trả lời 4-1:
- Thầy Nhân thiếu cơ sở khoa học khi viết: “Nhà Thánh không nhất thiết đặt tại huyện lỵ”. Xin hỏi, thầy Nhân có thống kê nào chỉ rõ: Bao nhiêu nhà Thánh huyện nằm ở Huyện lỵ, bao nhiêu nhà thánh huyện không nằm ở Huyện lỵ?
- Nhưng vấn đề quan trọng là, trong chiều dài lịch sử cả ngàn năm, các Quốc gia, các tỉnh, các huyện, các xã, thường xuyên biến động về địa giới, về tên gọi, về diện tích, về lỵ sở, về vị trí và tên gọi của lỵ sở. Ví dụ thầy Nhân nói đến huyện Đức Thọ, không nói gì xa xôi, chỉ từ đầu Công nguyên đến nay, đã nhiều lần thay đổi tên huyện:
- Thời Bắc thuộc: Thời nhà Hán (đến năm 220 SCN), vùng đất Đức Thọ ngày nay nằm trong huyện Hàm Hoan
- Thời nhà Đường, vùng đất Đức thọ có tên là Cổ La thuộc Hoan Châu.
- Thời nhà Ngô thế kỷ thứ X vùng đất Đức Thọ nằm trong huyện Cửu Đức.
- Thời Nhà Lý và nhà Trần, vùng đất Đức Thọ là huyện Chi La thuộc phủ Đức Quang, Nghệ An châu.
- Thời Lê sơ, vùng đất Đức Thọ có tên là huyện La Giang (1428) thuộc phủ Đức Quang, xứ Nghệ An.
- Thời Lê Trung Hưng (1729 - 1740) là huyện La Sơn thuộc phủ Đức Quang, trấn Nghệ An.
- Thời Minh Mạng (1822) phủ Đức Quang đổi tên thành phủ Đức Thọ. Huyện La Sơn thuộc phủ Đức Thọ
- Sau 1945, huyện La Sơn đổi thành huyện Đức Thọ cho đến ngày nay.
- Sử sách không ghi lại hàng nghìn năm đó, huyện lỵ Đức Thọ nằm ở đâu, Nhà Thánh hyện nằm ở đâu.
- Dù không biết đích xác Nhà thánh nằm ở đâu, nhưng có thể khẳng định là nằm ở Huyện lỵ. Vì sao?, Vì các vị Quan Huyện chẳng “dại gì” xây Nhà Thánh ở xa, để hàng năm biết bao nhiêu lần phải “đánh đường” đi xa để phung thờ Thánh Khổng.
- Theo “Đại Nam Nhất Thống Chí” của Triều Nguyễn, viết thời vua Tự Đức, trước năm Minh Mệnh thứ 7 (1826), Lỵ sở của huyện La Sơn ở xã Yên Hồ, từ năm 1826 chuyển về xã Yên Trung, tức là chỗ Thị trấn Đức Thọ ngày nay. Chúng tôi không có điều kiện tìm hiểu để khẳng định Nhà Thánh huyện La Sơn (Đức Thọ) nằm ở đâu, nhưng có thể đoán nằm ở xã Yên Hồ, tương tự như Nhà Thánh huyện Hương Sơn nằm ở xã Sơn Tân.
- Ai cũng biết, Yên Hồ là “Đất học” nổi tiếng xưa nay, hơn hẳn Thị trấn Đức Thọ hiện hữu. Tỉnh Hà Tĩnh có 2 vị Trạng Nguyên thì 1 vị quê Yên Hồ là Trạng nguyên Đào Tiêu đậu năm Ất Hợi (1275) đời Trần Thánh Tông, nhiều vị Đại khoa Tiến sỹ thời phong kiến như Tiến sỹ Nguyễn Biểu, Tiến sỹ Phạm Nại (1427- ?), Tiến sỹ Nguyễn Phong (1559-?); Tiến sỹ Lê Đắc Toàn (1621- ?). Nhiều nhà khoa học ngày nay xuất thân tư đất Yên Hồ: các Giáo sư Hoàng Xuân Hãn (1908- 1996), GS Hoàng Xuân Nhị (1914- 1990), GS Hoàng Xuân Chinh, GS-TS-NGND Võ Quý, GS-TS-NGND Trần Văn Bính, GS-TSKH Trần Đức Thiệp,
- Nhưng vấn đề quan trọng là, trong chiều dài lịch sử cả ngàn năm, các Quốc gia, các tỉnh, các huyện, các xã, thường xuyên biến động về địa giới, về tên gọi, về diện tích, về lỵ sở, về vị trí và tên gọi của lỵ sở. Ví dụ thầy Nhân nói đến huyện Đức Thọ, không nói gì xa xôi, chỉ từ đầu Công nguyên đến nay, đã nhiều lần thay đổi tên huyện:
- Thời Bắc thuộc: Thời nhà Hán (đến năm 220 SCN), vùng đất Đức Thọ ngày nay nằm trong huyện Hàm Hoan
- Thời nhà Đường, vùng đất Đức thọ có tên là Cổ La thuộc Hoan Châu.
- Thời nhà Ngô thế kỷ thứ X vùng đất Đức Thọ nằm trong huyện Cửu Đức.
- Thời Nhà Lý và nhà Trần, vùng đất Đức Thọ là huyện Chi La thuộc phủ Đức Quang, Nghệ An châu.
- Thời Lê sơ, vùng đất Đức Thọ có tên là huyện La Giang (1428) thuộc phủ Đức Quang, xứ Nghệ An.
- Thời Lê Trung Hưng (1729 - 1740) là huyện La Sơn thuộc phủ Đức Quang, trấn Nghệ An.
- Thời Minh Mạng (1822) phủ Đức Quang đổi tên thành phủ Đức Thọ. Huyện La Sơn thuộc phủ Đức Thọ
- Sau 1945, huyện La Sơn đổi thành huyện Đức Thọ cho đến ngày nay.
- Sử sách không ghi lại hàng nghìn năm đó, huyện lỵ Đức Thọ nằm ở đâu, Nhà Thánh hyện nằm ở đâu.
- Dù không biết đích xác Nhà thánh nằm ở đâu, nhưng có thể khẳng định là nằm ở Huyện lỵ. Vì sao?, Vì các vị Quan Huyện chẳng “dại gì” xây Nhà Thánh ở xa, để hàng năm biết bao nhiêu lần phải “đánh đường” đi xa để phung thờ Thánh Khổng.
- Theo “Đại Nam Nhất Thống Chí” của Triều Nguyễn, viết thời vua Tự Đức, trước năm Minh Mệnh thứ 7 (1826), Lỵ sở của huyện La Sơn ở xã Yên Hồ, từ năm 1826 chuyển về xã Yên Trung, tức là chỗ Thị trấn Đức Thọ ngày nay. Chúng tôi không có điều kiện tìm hiểu để khẳng định Nhà Thánh huyện La Sơn (Đức Thọ) nằm ở đâu, nhưng có thể đoán nằm ở xã Yên Hồ, tương tự như Nhà Thánh huyện Hương Sơn nằm ở xã Sơn Tân.
- Ai cũng biết, Yên Hồ là “Đất học” nổi tiếng xưa nay, hơn hẳn Thị trấn Đức Thọ hiện hữu. Tỉnh Hà Tĩnh có 2 vị Trạng Nguyên thì 1 vị quê Yên Hồ là Trạng nguyên Đào Tiêu đậu năm Ất Hợi (1275) đời Trần Thánh Tông, nhiều vị Đại khoa Tiến sỹ thời phong kiến như Tiến sỹ Nguyễn Biểu, Tiến sỹ Phạm Nại (1427- ?), Tiến sỹ Nguyễn Phong (1559-?); Tiến sỹ Lê Đắc Toàn (1621- ?). Nhiều nhà khoa học ngày nay xuất thân tư đất Yên Hồ: các Giáo sư Hoàng Xuân Hãn (1908- 1996), GS Hoàng Xuân Nhị (1914- 1990), GS Hoàng Xuân Chinh, GS-TS-NGND Võ Quý, GS-TS-NGND Trần Văn Bính, GS-TSKH Trần Đức Thiệp,
Trả lời 4-2: Tại sao “xã Tùng Ảnh không đặt huyện lỵ nhưng có tới 2 nhà Thánh tại Yên Nội và châu Trung.”?
- Hai Nhà Thánh ở xã Tùng Ảnh là Nhà Thánh xã, chứ không phải là Nhà Thánh huyện
- Năm 1978 Việt Nam gom 2 xã Tùng Ảnh và Châu Phong vào 1 xã, đặt tên chung là xã Tùng Ảnh.
- Như vậy, cả ngàn năm nay 2 Nhà Thánh này là của 2 xã khác nhau. Thầy Nhân quên câu chuyện gom xã nên mới nói xã Tùng Ảnh có tới 2 Nhà Thánh!
- Năm 1978 Việt Nam gom 2 xã Tùng Ảnh và Châu Phong vào 1 xã, đặt tên chung là xã Tùng Ảnh.
- Như vậy, cả ngàn năm nay 2 Nhà Thánh này là của 2 xã khác nhau. Thầy Nhân quên câu chuyện gom xã nên mới nói xã Tùng Ảnh có tới 2 Nhà Thánh!
No comments:
Post a Comment